IPB

Welcome Guest ( Log In | Register )

7 Pages V   1 2 3 > » 

convoiyeuco
Posted on: Mar 18 2007, 05:51 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


Còn đâu nữa sắc vàng trên đồi vắng
Chút sương mờ ôm ấp những hàng thông
Thung lũng dưới trăng cùng nhau ước hẹn
Cánh Dã Quỳ tâm sự những nhớ mong

Em theo gió xa rồi , hoa tháng Hạ
Anh lơ ngơ bước mãi dưới chân đồi
Tìm chút nhớ, giận, hờn... nơi hẹn cũ
Chút ngọt mềm xa vắng của bờ môi...
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9400 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Mar 17 2007, 03:15 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(HoaThangHa @ Mar 17 2007, 02:52 AM) *
Tình là thế nhưng tình không là thế
Phải đâu ai yêu mà cũng dại khờ
Có người về lặng khóc với vần thơ
Nhưng có kẻ đang mỉm cười hạnh phúc
HoaThangHa


Và vì thế trên dòng đời trong đục
Ta vẫn yêu với tất cả bồi hồi
Dù biết tình man mác tựa biển khơi
Khi tĩnh lặng, khi chìm trong bão tố

Tình là thế : có vui, buồn, sướng , khổ
Trăm lần vui sánh tựa vạn lần sầu
Phút huy hoàng đánh đổi vạn lần đau
Và cứ thế tình yêu còn mãi mãi
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9397 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Mar 16 2007, 10:59 PM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(HoaThangHa @ Mar 16 2007, 07:39 AM) *
Tình Net ... ( tiếp )

Tình Net ... vâng lại là "Tình Net" các bạn ạ!
Khi tôi viết bài viết này mà bạn đọc được nó , thì bạn cũng là người có qua lại trên Net ít nhiều .
Lang thang trên Net , có lẽ bạn cũng đã thấy ở đâu đó những cuộc tình Net . Nhưng ... có khi nào bạn hỏi "Tình Net" thực hay hư chưa? Và đáp án của bạn là gì ?
Người ta cũng đã hỏi tôi :
Người hỏi ta ? Tình Net thực hay hư ??
Hư hay thực người và ta đều biết
Net là ảo, tình ta trao là thực
Nhưng nhận về nào biết thực hay hư ??

Mộng đời thường xen lẫn thực và hư
Giữa cuộc sống bộn bề bao hư thực
Người đối mặt còn trao nhau giả dối
Thì xá gì trên Net chẳng lừa nhau

Dù biết vậy nhưng vẫn cứ thấy đau
Đau vì biết mình trao đi tình thực
HoaThangHa


Tình là thế ! Tình muôn đời vẫn thế !
Mỗi khi yêu ...trọn vẹn trái tim khờ
Dù đã biết tình thưòng mang lừa dối
Cách xa rồi ....lặng khóc với vần thơ


  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9394 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Mar 16 2007, 12:05 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(HoaThangHa @ Mar 15 2007, 08:25 AM) *
Xin hỏi : Vì sao chốt qua sông ?
Có phải bên kia phú quý không ?
Hay bởi cuộc cờ và thế sự
Buộc lòng chốt phải bước qua sông ?
HoaThangHa


Đừng hỏi vì sao, chuyện đã qua
Lỗi ai ...thì cũng vậy thôi mà
Tốt trót sang hà đâu trờ lại
Nhắc chỉ dau lòng, khổ người ta ...
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9391 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Mar 15 2007, 03:35 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(convoiyeuco @ Mar 15 2007, 03:27 AM) *
Từ khi em bước về bên ấy
Trong ánh sương mờ loang bến sông
Anh vẫn nhủ lòng thôi đã mất
Tiếc nuối làm gì : chốt sang sông...


Nghĩ thế nhưng rồi Đông lại qua
Có trang lữ khách ghé chơi nhà
Lại giở Tượng Kỳ đưa chén tửu
Chợt buốt lòng khi Tốt sang hà ........
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9389 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Mar 15 2007, 03:27 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


Từ khi em bước về bên ấy
Trong ánh sương mờ loang bến sông
Anh vẫn nhủ lòng thôi đã mất
Tiếc nuối làm gì : chốt sang sông...

  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #9388 · Replies: 18 · Views: 75,009

convoiyeuco
Posted on: Jan 5 2007, 01:35 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


Có ai lấy nick là : ao_ngan chua vay ta ? rolleyes.gif
  Forum: Diễn Đàn Việt Nam · Post Preview: #8880 · Replies: 5 · Views: 12,371

convoiyeuco
Posted on: Jul 31 2006, 07:22 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(loveyou19761981 @ May 16 2006, 07:15 AM) *

O phong sw thuong vang sao khong cho tu dong vao nodanh khong can tinnnnnnnnnh diem cung duoc


Neu danh ma k can tinh diem nhu vay thi khi nao muon danh thi alo cho 14xx na`y di tongue.gif neu k thi alo qua yahoo messenger : convoiyeudoi tongue.gif
  Forum: Diễn Đàn Việt Nam · Post Preview: #8135 · Replies: 4 · Views: 13,383

convoiyeuco
Posted on: Jul 31 2006, 06:34 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(vitquayday @ Jun 12 2006, 07:57 AM) *

đây là pri message tôi đã ko it lần nhận được từ những nick của người nay <5><6>{from tay_kyvuong} <5>'g good ----> hắn thường viết Pri chat cho đối thủ khi gần hết giờ ở blitzgame va fastgame để ăn time up (tiểu nhân bỉ ổi).
bà con chú ý đừng chơi với hắn nữa

TB: tôi ko có ý định để viết bài này nhưng mà thấy tức quá,vn lại có người thủ đoạn và nhỏ nhen như vậy,nếu tay_kyvuong đọc được bài này hy vọng đùng làm vậy nữa.he he

hy vong doc viet nay nhieu ban khac cung se ko lam nhu vay nua ,sorry vi bai viet ko duoc hay cho lam
ai biet nick khac cua tay_kyvuong chi cho tui ,de tui tranh


Nếu bạn không muốn bị như thế thì hãy làm như sau :
click mouse vào nút ĐIỀU CHỈNH ( OPTION ) sẽ thấy có dòng POPUP PRIVATE WINDOWS , bạn bỏ dấu check ( ở trạng thái mặc định là có dấu check ) thì những lời chat riêng ( private chat ) chỉ hiện trên phần bên phải bàn cờ ( bạn vẫn xem được binh thường nếu chú ý quan sát ) và không hiện lên 1 cái window khac như bình thường nữa .

Have fun smile.gif
  Forum: Diễn Đàn Việt Nam · Post Preview: #8134 · Replies: 2 · Views: 8,958

convoiyeuco
Posted on: Jul 31 2006, 06:26 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(thuyvi_hvtc @ Jul 14 2006, 12:04 PM) *

Ai ở Hà nội muốn đánh cờ trực tiếp với tôi
thuyvi_hvtc@yahoo.com hoặc gặp trực tiếp trịnh thúy vi phòng 201B kí túc xá Học viên tài chính (Đông ngạc từ liêm hà nội) 18xx ko xài sw trong cxq trở lên mới đánh . 14xx, 15xx chấp 1 mã
Nói nhỏ chút : đánh có giải đó 20 ngàn 1 ván biggrin.gif


VOI co 1496 vay duoc chap ma~ + bao nhieu nước tiên dzậy ? tongue.gif
  Forum: Diễn Đàn Việt Nam · Post Preview: #8133 · Replies: 11 · Views: 24,164

convoiyeuco
Posted on: Jul 31 2006, 06:03 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(whitebearmos @ Jul 24 2006, 04:54 PM) *

Lang thang trên net vô tình đọc được bài viết này thấy hay hay post qua đây cho mọi người cùng đọc

Con tốt sang sông là không còn đường về nữa rồi ..phải không anh

Một lời nói ra không bao giờ ta có thể rút lại được nữa anh nhỉ

Anh vẫn bảo là với em con gái mà thích chơi cờ tướng cờ vua thích 36 binh pháp của tôn tử em không sợ mất nữ tính sao
Nhưng em là em là con gái vẫn buồn khi mỗi con tốt qua sông
Anh không là người đầu tiên dạy em chơi cờ tướng ..nhưng anh là người đầu tiên khiến em không buồn khi thấy tốt sang sông ...tốt sẽ đi chỉ một đường ..và khi đó nó sẽ chết để cho tướng được sống

Với em con tốt nhỏ bé đôi khi lại là điều em thấy quý giá nhất trên bàn cờ ..

Em nhớ một câu nói em đã từng nói với anh của ai đó hình như là Napoleong

Trong một lần trao huân chương Ông đã nói :
Ngày hôm nay tôi được vinh dự trao huân chương cho những người anh hùng loại hai vì khi tiếng kèn xung trận vang lên những người anh hùng thực sự đã ra đi và họ không còn trở về với chúng ta được nữa

Em đã từng nói với anh rằng ..em thích cờ vua hơn vì khi con tốt đi đến cuối bàn cờ nó sẽ thành hậu ,thành xe,thành tượng

Vẫn còn một ván cờ nữa chúng ta chẳng bao giờ kết thúc được
Pháo vẫn ăn lồng ..và tốt vẫn cứ qua sông chẳng bao giờ có thể quay trở lại

Ta đã từng là người điều binh khiển tướng để nắm giữ vững bàn cờ
ta có buồn khi mất đi một con Tốt không

Tac gia : Chua (ttvnol )


Vậy thì VOI cũng chia sẻ mọi người 1 câu chuyện tình có liên quan chút chút đến việc CON TỐT QUA SÔNG nữa.

HIU HIU GIÓ BẤC


Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: " Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương" . Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: " Mê gì như thằng Hết mê cờ" . Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: " Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?" . Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghệ Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồị

Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng vộ Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêụ Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấụ Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.

Tía anh Hết năm nay 72 tuổị Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng taị Người ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay: " Ăn rồị Ăn cơm với thằng Hết rồi" . Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy rụị Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.

Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiềụ Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạọ

Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có nghĩa gì đâụ Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái xóm Giồng Mớị Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường.

Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, " Chớ ầu ơ... Cây khô đâu dễ mọc chồị.." . Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưạ Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.

Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bộị Hỏi anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.

Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết mình.

Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảọ Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồị Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt qua sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoàị

Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.

Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổị Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vuị Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: " Anh Hết hổng được chỗ nào hả má?" . " ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảọ Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà" . Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đờị

Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh đã thay đổi, nhanh như người ta lật một bàn taỵ Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng Hết bê tha thiệt rồị Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên mấy con cờ xanh đỏ.

Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ lớn nhất đời ngườị Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già rồi có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậỵ Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu nhịp nhàng " Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường" . Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đờị Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơị Xóm này người ta không biết nên nói mày hết thuốc chữa rồị Con tao mà vậy à.

Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh Hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậỵ Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồị Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậỵ Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vàọ Đi một đoạn, nghe đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà khóc vậỵ Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưạ Hết cười lớn, nói lớn: " ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về" ...
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.

Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tíạ Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khộ Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót xa:

- Sao nông nỗi vầy, Hoàỉ

Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không tin: " Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ" . Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.

Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữạ Chị Hoài nói với bạn: " Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ. ảnh nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè..." . Giữa đường nói chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đâỵ Cho bỏ tội mê cờ, nghen.

Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay vào quân cờ nào nữạ Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơị Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn. Tấn chỗ nàỏ Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏị Tụi nhỏ kêu, đây là kiểu " hiệp sĩ mù nghe gió kiếm" , đánh cờ mà làm công chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.

Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vộ Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nộị Hết lượng sượng mãi mới cười: " Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ" . Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tíạ Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đị Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: " Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:

- Hảo, tôi... cảm ơn.

Anh ngần ngừ sau chữ " tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãị Chi vậy Hết ơi!

Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừạ Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu không?

Hiểu, nên tôi chờ đây nè.

Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm " Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn" , chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.

Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?

Ai mà biết.

Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về.


[b]
NGUYỄN NGỌC TƯ
[b]
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #8132 · Replies: 1 · Views: 18,115

convoiyeuco
Posted on: Jul 31 2006, 03:20 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(QUOC_TE_DAI_SU @ Jul 30 2006, 11:12 AM) *

Dap ung yeu cau bac Voi :
IPB Image
IPB Image
Con day le em co nick tren CXQ la kithuxinhdep
IPB Image

P/s: Bac Voi dao nay ko thay tren CXQ nua vay , bac oanh co o dau the ?


laugh.gif Định xí gạt VOI già này sao mà nói hình của em HoaTiGon dzậy ? laugh.gif

P/S : Càng đánh càng thấy mình vịt quá nên quyết định ngồi xem là chính í mà tongue.gif
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #8128 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Jul 27 2006, 03:43 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(QUOC_TE_DAI_SU @ Jul 26 2006, 02:18 PM) *

Hoa Ti Gon xinh lam , ai can toi post hinh cho xem



còn hỏi nữa rolleyes.gif
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #8110 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Mar 24 2006, 06:17 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


Thịt Cầy Toàn Tập

I. Luận về món cầy

Nói đến món ăn miền Bắc, ngoài cái công việc “nghi lễ và cách thức ăn uống” phải kể đến yếu tố hoàn cảnh, không gian lẫn thời gian. Thật vậy, không có gì bằng buổi trưa nóng hừng hực, một mâm gỏi cá với những đĩa rau lá xếp gọn gàng thứ tự, bát giấm nóng thơm phức, nhâm nhi vài ly rượu đế thì thực là cõi tiên! Rồi những buổi mưa tầm tã, hưởng mùi ngai ngái của hơi đất ẩm nồng, mùi nụ mướp đơm hoa, cà vừa chớm nụ mà trước mặt mình ngổn ngang “11 món thịt cầy”! “Nắng gỏi mưa cầy” là vậy đó.
Ai đã từng thưởng thức món “Hạ cờ tây” cũng đều phải ca tụng rằng :


“ Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,
Chết xuống âm phủ, biết có hay không?”



Gạt ngoài vấn đề phong tục tập quán, ở đây chúng ta chỉ bàn về món ăn “độc nhất vô nhị” này. Thật ra, không chỉ món cầy là riêng của người miền Bắc, hầu như trên khắp thế giới, không nơi nào lại không có “khuynh hướng giả cầy”.

Vào thời kỳ chiến tranh, dân chúng thường thấy một vật rất đắc lực cho mình, bỗng trở nên một “gánh nặng”. Đó là mấy anh “cà bông” nhông nhông suốt ngày, người chiến binh đang thiếu thực phẩm, người thôn quê hiện chẳng thức ăn, bỗng chốc nghĩ ra rằng : Mấy anh khuyển…có vẻ “vô duyên” quá! Các sách kiếm hiệp Tàu, đôi khi cũng nhắc đến món cầy trong bước đường giang hồ của các tay võ lâm cự phách một cách tự nhiên.

Tuy vậy, lại có người xem chó như một động vật có tư tưởng cho nên nuôi nấng một cách “đường hoàng” cho đến khi “khuyển lão” yên giấc ngủ ngàn thu. Thay vì bỏ vào lò luyện món trường sinh bất tử lại làm một màn tiễn đưa đầy thương tiếc.

Những tay hạ cầy lại có một lối lý luận rất ư là vững chắc. Họ quan niệm rằng, cái nhiệm vụ tự nhiên của chó là giữ nhà coi cửa, những cử chỉ thân thiện là do thói quen cố hữu, còn ngoài ra “hắn ta” vẫn là một trong muôn ngàn động vật của “Trời cho”, vậy việc gì mà ta không ngả cầy cho đúng với định luật bất di bất dịch đó.

Người ta không thể không công nhậ rằng, yếu tố ăn uống là một nhu cầu tối quan trọng của người phàm. Lại có người tỏ ra e dè hoặc mặc cảm. Xin kể một câu chuyện : Anh Phó Đảm, người miền bể Nam Định, cưới cô Hai Huệ miền Cửu Long Giang bát ngát, những tưởng êm ấm vì tình Bắc duyên Nam. Cô Hai Huệ dù hết sức cưng chiều anh Phó Đảm cũng không tránh khỏi cái cảnh cơm không lành canh không ngọt, mặc dầu với canh chua cá lóc, anh Phó Đảm hết sức là hoà đồng, thưởng thức một cách tuyệt vời món canh chua quê vợ. Tuy nhiên, anh ta cũng không bao giờ quên được những mùi vị miền quê hương yêu dấu, mà phải do cô vợ hiền tự tay nấu nướng nó mới thật chân tình. Vì thế, anh Phó Đảm thường hay vắng nhà để đi dốc bầu tâm sự với quán cầy. Báo hại cô Hai Huệ phải chịu khó mon men đến nhờ một Bà Bắc hàng xóm hoc hỏi về món “thần sầu” để giữ chồng. Và chỉ sau một thời gian, cả hai vợ chồng đều hoà đồng với cái món Mộc Tồn.

Đấy là vì người ta nhận thấy một sự quan trọng đầy tế nhị trong vấn đề ăn uống. Yêu nhau chẳng phải “cởi áo cho nhau”, về nhà mẹ hỏi lại phải nói dối “qua cầu gió bay” mà còn phải mang niềm vui cho người phối ngẫu trong vấn đề “thích khẩu”.

Chắc rằng, trước đây cô Hai Huệ đâu có rõ những cái thích của trai miền Bắc :


“Đàn ông biết đánh tổ tôm
Biết ăn thịt chó, xem nôm Thuý Kiều”.



Có thể nói, món thịt cầy là một món thông dụng trên khắp miền thôn quê Trung Châu, Bắc Việt, nhất là các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định… Không nhà nào mà không nuôi chó. Nghèo thì dăm ba con, giàu thì mươi mười lăm con. Nuôi chó vừa có tác dụng giữ nhà vừa để khi trong nhà có việc giỗ chạp, đình đám, lễ lạc, tuỳ theo số thực khách tham dự nhiều ít mà ngả cầy từ một đến hai con. Trong một xóm, mấy ông bợm nhậu thỉnh thoảng lại rủ nhau “đánh đụng” chia hai hoặc chia tư một con cầy.

Làm thịt cầy cũng được chọn lựa kỹ càng, không những về tuổi tác mà còn cả về màu sắc lông, cho nên chó cũng được liệt kê thứ bậc : “nhất bạch, nhì vàng, tam khoan, tứ đốm”. Chó bạch được xếp loại thịt ngon, ít mỡ, nạc mềm. Loại chó này rất hiếm. Còn loại chó mực ít người dùng vì cho là hãm tài.

Chó nuôi từ một năm đến một năm rưỡi là ăn thịt được, còn như trên hai, ba năm thì thịt cứng và dai. Người kén ăn thường chọn chó vàng, nhất là chó đang độ “đi tơ”. Vì thế có câu : “Gà lọt dậu, chó xáo xác”. Gà thì lớn vừa luồn khe dậu, còn chó xáo xác có nghĩa là loại chó đang trong thời kỳ nẩy nở toàn diện, chạy đôn chạy đáo đi tìm nguồn…yêu đương.

Phần đông các chợ miền Bắc đều có một hay hai hàng bán thịt cầy. Các quán này đặt ngay trong nhà lồng chợ, không những thu hút bợm nhậu mà khi mùi vị của món chả nướng từ trên bếp than hồng toả ra thơm phức quyện theo làn không khí bay thoảng vào khứu giác thì ngay cả quý bà quý cô…cũng phải…lần vào :


“Cô kia đi chợ đồng quê
Thấy hàng chả chó liền…lê tôn vào
Cặp này anh lấy bằng nao
< Ba đồng một cặp lẽ nào lại không

Nói dối là mua cho chồng
Đi qua quãng đồng ngả nón…liền ăn”



Ngày nay, sau cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam, món cầy cũng được đồng bào Bắc du nhập. Đảo qua vài vòng trong các thành phố lớn nhỏ, xuất hiện những quán mang tên “Hạ Cờ Tây”, “Mộc Tồn”, “Cây Còn”…Nhưng có quán thì tấp nập khách ăn, có quán lại vắng vẻ đìu hiu. Nguyên nhân chính là cách thức làm cầy mỗi nơi mỗi khác, gia vị không thích khẩu, cho nên không vừa ý người sành ăn.

Nói đến gia vị, cũng là một phần quan trọng trong các món thịt cầy. Bạn sẽ khó chịu khi thấy trên bàn tiệc, thiếu đĩa rau húng quế hoặc bạn phải nằng nặc đòi cho được ít lá mơ tam thể. Đối với các loại rau, vấn đề vệ sinh được đặt lên hàng đầu. Cho nên, rau phải được rửa kỹ lưỡng bằng thuốc tím, lựa nhặt từng lá rau, rảy cho ráo nước, dùng khăn sạch lau khô, nhất là lá mơ, và xếp thành từng loại,xén đầu xén đuôi, đặt trên đĩa.

Riềng, mắm tôm, mẻ, một trong ba thứ gia vị này mà thiếu thì xin bạn đừng “ngả cầy”. Phải có đủ mới thưởng thức đúng mùi vị của nó, và mới cảm thấy ngon. Món ăn nào gia vị đó, cho nên :


“Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”.



Ngoài việc phải giã nát riềng để tra vào các món, riềng còn được thái mỏng để “đưa cay” như rau rợ. Bạn cứ thử tưởng tượng : Hớp một ngụm rượu, gắp một miếng thịt luộc đưa lên miệng sau khi chấm mắm tôm chanh, đồng thời cắn một miếng riềng nhai cùng với lá mơ, lá quế…thì ôi thôi! Ngon ơi là ngon!

Mẻ có mùi vị chua, muốn “nuôi mẻ” cần phải gây “cái mẻ”. Nấu cháo hoa đặc sệt, để nguội rồi đổ vào hũ mẻ cái, để càng lâu càng ngon, càng để lauu mẻ càng dậy chua.

Một con cầy cần đến một bát mẻ. Nghiền tan như bột, cho vào chiếc rá nhỏ, lấy thìa xát kỹ xuống nan rá. Nếu không lược kỹ, mẻ ít tan ngấm vào thịt dù rằng nhào bóp mạnh. Không nên nuôi mẻ bằng cơm nguội, vì mẻ sẽ ngả màu vàng úa, hột cứng lâu tan.

Mắm tôm là một thứ mắm làm bằng tôm rảo, tôm phải thật tươi mắm mới thơm ngon. Nếu nhà làm được thì tốt nhất, sạch sẽ. Thường thường mắm tôm mua ở chợ có cấn và sạn, vì họ làm nhiều để bán nên cẩu thả, tôm uwown, không đậy kỹ khi phơi nên ruồi nhặng bâu bám, màu đen và mùi vị không thơm.

Làm mắm tôm kể ra rất dễ. Mua tôm còn tươi đem về rửa sạch, nhặt bỏ mu đầu, cho vào cối giã dập dập với muối. Cứ 3 kg tôm thì trộn chừng 2 bát muối. Giã xong cho vào 1 cái vại, lấy vải thưa đậy kín, lấy dây buộc chặt xung quanh miệng vại và đem phơi ngoài trời. Chừng một tuần lễ tôm đến thời kỳ “ngấu”, dùng cối đá giã thật kỹ, giã ba lần. Mỗi lần vúc mắm cho vào hai bàn tay nắm chặt để vắt lấy “cốt mắm”. Sau cùng còn lại “bã mắm” vẫn dùng được nhưng phải băm nát và cho vào cốt mắm luôn. Sau đó, cho vào chai hay hũ sành đậy nút kín. Mắm càng để lâu càng thơm ngon, đỏ tươi. Mắm này mà vắt chanh chấm với các món thịt cầy thì ngon tuyệt, cũng như cho vào việc tra nấu. Tất cả ba thứ gia vị nói trên, cần tra cùng một lúc cho từng món. Nhưng điều cần nhất là phải làm thế nào cho việc nhào, bóp, nắn thật kỹ để các gia vị thấm sâu vào từng thớ thịt. Số lượng dùng bao nhiêu sẽ nói kỹ hơn trong từng món.

Ngoài gia vị chính, còn phải tra thêm nước mắm, muối, sả… tuỳ theo món ăn.


[b]II. Các món thịt cầy [/b]

Thường thường, một bữa thịt cầy gồm 8 món :
1. Tiết canh
2. Dồi
3. Thịt luộc
4. Chả nướng
5. Sườn xào
6. Lòng xào
7. Nhựa mận
8. Xáo ninh

Và bổn quán xin cống hiến 3 món đặc biệt nữa là :
9. Óc chó
10. Chả chiên lá na
11. Tái áp chảo

Xả thịt
Sau khi con cầy đã thui xong, rửa nước thật sạch, vừa dội nước vừa lấy dao cạo trên da cho hết cáu đen. Đặt cầy nằm ngửa rạch một đường dọc giữa ngực xuống tới bụng dưới để đem bộ lòng ra ngoài. Sau đó bắt đầu xả thịt. Muốn dễ dàng trong việc xả thịt này, xin cống hiến sơ đồ đã phân chia từng phần để làm các món.

II. Cách thức thực hiện 11 món

Muốn làm bữa tiệc cầy cho chu đáo, cần phải sửa soạn các phương tiện từ trước cũng như mua sắm các đồ gia vị và để sẵn sàng ngay tại chỗ xả thịt.

VẬT LIỆU : 3 nồi nhỏ, 3 nồi vừa, 2 nồi to, 1 chảo đất, 1 chảo gang, 1 thớt to, 1 dao phay, 1 dao chặt, vỉ nướng, rơm, than củi, cối đá, rổ rá.

GIA VỊ : Riềng, mẻ, mắm tôm, nước mắm, muối, hành sống, sả, lá na, lá bí đao, lá lốt, lá mơ, húng quế, húng lìu, chanh ớt, vừng, đậu xanh, mỡ nước, thịt lợn nạc, mỡ lợn sống, dầu ăn.

1. Món óc

Sau khi lấy cả bộ óc, trộn thêm 100 gr mỡ lợn sống, 100 gr mỡ cầy, đem băm nát với ba củ hành ta và tra nước mắm tôm, nước riềng, nước mẻ (mỗi thứ một thìa cà phê). Xếp lá bí đao thành nhiều lượt rộng bằng 2 bàn tay, đặt trên thớt, đổ óc vào giữa, gói theo hình vuông, buộc chỉ bên ngoài thành chữ thập (như gói bánh chưng).
Một bộ óc có thể làm 2 gói - nếu muốn thêm một vài gói nữa thì băm thêm 200 gr thịt nạc cầy. Gói xong, cho vào nồi nhôm, lấy nước luộc thịt đổ ngập, đậy vung kín và cho lên bếp đun, chừng 30 phút sẽ chín.
: Món này ăn đầu tiên, nên lựa thời gian để khi thực khách vào bàn ăn thì vừa chín, ăn nóng mới ngon. Ăn luôn cả lá bí đao bọc ngoài. Lấy dao xẻ trước làm 4 phần.

2. Món tiết canh

Nhân tiết canh gồm thịt da đầu, lưỡi, thái và băm nát, cho một ít húng quế vào băm luôn. Băm xong cho nhân vào từng đĩa có lòng sâu. Mỗi đĩa tuỳ nhân nhiều hay ít,số lượng tiết cũng theo đó mà tăng giảm. Nhưng thường thường từ 3 đến 4 thìa tiết đổ thêm 5 đến 6 thìa nước lạnh (nước này là nước luộc thịt múc ra trước để cho nguội). Khi đổ nước vào tiết, cần quấy nhanh tay và đổ liền vào đĩa nhân. Chừng ½ phút thì đĩa tiết canh sẽ đông lại. Lấy 5,6 miếng gan đặt lên trên tiết canh theo hình ngôi sao.

Lưu ý : Gặp khi tiết không đông, nên nếm tiết xem có mặn không, nếu tiết mặn đổ thêm chút nước lạnh quấy đều, tiết sẽ đông. Nếu nhận thấy ít nhân, có thể băm thêm một ít ruột cây chuối non, trộn lẫn với nhân thit.

3. Món dồi

Tất cả khúc ruột non, ruột già phải “lộn lèo” để rửa sạch sẽ bằng muối. Nhớ đừng cắt dạ dày rời cuống ruột non, vì sẽ dùng dạ dày để dồn nhân vào ruột cho dễ dàng.
Nhân dồi có những gia vị sau :
- 2 nắm lá mơ
- 100 gr đậu xanh rang chín, giã nát
- 1 thìa mắm tôm
- 1 thìa mẻ
- 1 chút riềng
- 1 thìa nước mắm
- 1 lít mỡ lợn sống và mỡ chó

Tất cả các gia vị trên cho vào chậu thau nhỏ trộn nhuyễn và dồi vào khúc ruột non. Nên cho vào 3,4 thìa thịt luộc để khi tuốt nhân chứa từ dạ dày xuống được trơn tru. Trước khi dồn nhân, lấy dây buộc chặt khúc cuối ruột, và buộc đầu dạ dày sau khi đã nhồi nhân xong. Cho vào nồi luộc chín. Khoảng 30 phút sau dùng một chiếc đũa tre vót nhọn, đâm sâu vào đầu, giữa, đuôi khúc dồi, cốt ý để xả hơi làm cho nhân dồi nở, chặt. Vớt khúc dồi ra để trong rổ cho khô ráo. Trước bữa ăn, cho vào chảo chiên vàng (cũng có thể nướng bằng rơm). Thái hơi vát từng khúc dồi bằng đốt ngón tay đặt vào đĩa. Khúc dồi lớn (dạ dày) đặt sát mặt đĩa, khúc dồi nhỏ đặt ở giữa và thái tim gan đặt lên trên.

4. Món luộc

Xử dụng một đùi sau để làm món thịt luộc. Luộc luôn tim gan, thịt da đầu (lóc trước), lưỡi để làm nhân tiết canh. Nồi luộc phải dùng nồi lớn, cho nhiều nước. Vì nước luộc này sẽ còn dùng cho nhiều món sẽ nói ở sau.

Luộc chừng một giờ thì chín, vớt ra để cho nguội. Riêng thịt đùi đun thêm 30 phút nữa.

Lưu ý : Thái thịt luộc cần phải dùng con dao phay mỏng lưỡi, sắc bén. Thái mỏng và to bản. Mỗi miếng thịt luộc phải có đủ 3 thành phần : da, mỡ, thịt.

5. Món chả nướng

Lấy một đùi sau và một đùi trước, thái từng miếng nhỏ, cho vào thau và tra các gia vị sau :
- ½ bát riềng đã giã nát
- ½ bát mẻ đã nghiền nát
- 3 thìa mắm tôm
- 1 thìa nước mắm
- 3 cây sả đập dập và thái nhỏ
- 1 chút húng lìu

Trước nhất, vắt nước riềng vào thịt nướng, bóp thật kỹ cho nước riềng thấm vào từng thớ thịt, rồi lần lượt đến mẻ, mắm tôm, bã riềng. Khi tất cả gia vị đã tra xong, cũng cần pahir nhào bóp trong khoảng 5 phút nữa. Lúc đó, thịt đã ngả màu trắng ngà. Trước khi nướng thịt, cho vào 3 thìa tiết, 1 thìa mỡ lợn, 1 nắm húng quế thái nhỏ trộn đều.

Dụng cụ để nướng gồm 1 hoả lò dùng than củi, 1 vỉ nướng, 1 chiếc quạt. Than phải thật hồng. Khi nướng, một tay cầm vỉ, một tay cầm quạt. Vỉ pahir được đảo ngửa sấp liên hồi, cốt ngăn mỡ không chảy nhiều xuống lò than tránh gây ám khói vào thịt. Cần phải quạt luôn, chiều gió quạt từ trên xuống lò, cốt áp đảo ngọn lửa đừng cho cháy thịt. Khi thịt nướng vàng đều, đổ ra thau, quạt vỉ khác. Thời gian nướng độ 30 phút.

6. Chả chiên lá na

Lóc thịt nạc ở 2 bên lườn xương sống, và ở rải rác các khớp xương khác, có thể lấy thêm thịt đùi. Cho thêm 300 gr thịt lợn nạc, băm nhuyễn cùng với gia vị : riềng, mẻ, mắm tôm mỗi thứ 1 thìa, chút muối, chút nước mắm, 5 củ hành ta.

Rửa sạch lá na, lựa lá to (nếu không sẵn lá na thì thay bằng lá lốt). Lá cần phải để cuống dài. Lấy thịt đã băm sẵn to bằng đốt ngón tay, đặt bên trên mặt lá, cuộn tròn cho tới sát cuống lá, lấy một chiếc tăm tre chọc thủng lỗ nhỏ vào giữa khúc chả, ấn cuống lá ngập vào (gói như các bà gói miếng trầu).

Khi chiên chả, cần đổ nhiều mỡ, chờ cho mỡ sôi mới cho chả vào chiên. Chả ngả màu vàng vàng thì vớt ra, chiên mẻ khác.

Món tái áp chảo

Thịt ở hai bên ngực (nằm trên 2 bộ sườn) được lóc ra để nguyên mảnh thịt như hình chữ nhật. Đặt lên mặt thớt, lấy một chiếc đũa tre vót nhọn, xâm vào khắp mảnh thịt, lấy nước riềng, nước mẻ, nước mắm tôm rưới vào mảnh thịt cho thấm, thái húng quế sát trên thịt, sau đó đem ướp độ 1 giờ sau thì áp chảo. Đặc biệt món tái áp chảo này phải dùng chảo đất. Phải cho to lửa, khi chảo đã nóng, đặt từng mảnh thịt vào chảo. Lật ngửa lật úp chừng 3 phút là chín tái. Để nguội, gần đến giờ ăn hãy thái từng miếng nhỏ, mỏng, dài độ 4 cm. Trộn với vừng rang giã dập.

Món chả sườn

Sườn được rọc từng 2 khúc xương một, chặt từng miếng ngắn bằng đốt rưỡi ngón tay. Tra mắm tôm, riềng, mẻ, 1 thìa mỡ lợn, trộn đều cho vào nồi nhỏ đặt lên bếp đun cho khô, đổ vài ba muôi nước luộc thịt, khi nào thấy sền sệt là được.
Sườn còn dùng để làm món khác nữa, món chả chìa. Món này thay vì xào thì đem nướng, ướp thêm sả, mỗi miêng chả chìa dài bằng cả 1 ngón tay út.

Lòng xào

Lấy khúc ruột già, một đoạn ruột non, phổi, 1/3 buồng gan. Tra riềng, mẻ, mắm tôm đem xào khô, vớt ra. Dùng một củ chuối non, thái từng mảng mỏng rồi xắt từng miếng dài to bằng sợi bún, xắt đến đâu ngâm ngay vào chậu nước, nước này được pha vào một thìa mẻ, giữ cho củ chuối được trắng. Sau khi rửa sạch, cho vào chảo xào chín, đổ vào bát nước luộc thịt. Tra thêm nước mắm, muối, mẻ. Trước khi bắc chảo khỏi bếp, đổ lòng vào trộn đều, đun ít phút nữa.

Món nhựa mận

Một đùi trước và tất cả các da thịt để làm nhựa mận như thịt bụng, lưng, cổ, xắt từng miếng nhỏ. Cách thức tra gia vị giống như món thịt nướng. Món này, ướp trong thời gian 1 tiếng. Trước khi đem lên bếp đun, cho vào 3 thìa tiết, 3 thìa mỡ lợn, trộn đều. Khi thấy thịt xào đã khô (nhớ lấy đũa đảo liên hồi phòng thịt khê) lấy nước luộc thịt đổ vào nồi nhựa mận, đổ thừa trên mặt thịt 1 đốt ngón tay. Đun chừng hơn 1 tiếng thì nước và thịt sẽ dẻo và keo lại. Món này cần ăn nóng, vì thế phải tính thời gian cho sát.

Xáo ninh

Bộ xương sống được chặt rời từng đốt và các xương ống chân chặt từng khúc. Món này cũng được tra gia vị riềng mẻ, mắm tôm, nước mắm, muối.
Xử dụng nồi luộc thịt, sau khi xào xương xong, đổ vào nồi. Ninh chừng 2 tiếng thì thịt nhừ. Tuỳ theo sở thích từng nơi, có thể nấu thêm với măng tươi hoặc măng khô.
Món này cũng để chan bún. Khi múc xáo vào bát, nhớ múc luôn cả những đốt xương sống. Các khúc xương này thịt nhừ và có tuỷ, ăn rất ngon, bùi và ngọt. Món này ăn nóng về cuối bữa tiệc.

Trình bày bàn tiệc và cách thức ăn uống

Người ta thường cho rằng : Thức ăn ngon mà chỗ ăn không ngon thì vị ngon cũng giảm đi mấy phần. Vì vậy chỗ ăn cần chưng dọn thế nào cho đẹp mắt. Bàn ăn nên phủ khăn trắng. nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm Cho nên, tất cả các món được đựng bằng các đĩa, bát trắng. Tuỳ theo số lượng của món mà dùng thứ đựng lớn nhỏ. Các đĩa đựng rau, riềng, chanh, ớt, mắm tôm, muối, bánh đa nên để riêng biệt. Nếu đặt bàn dài, thì một mâm cho 6 thực khách. Các thứ gia vị được đặt xung quanh gần rìa bàn, các món ăn đặt trong vòng hình chữ nhật đối diện nhau mà đĩa óc sẽ ngự trị chính giữa. Trừ 2 món là món nhựa mận và xáo ninh múc vào bát sẽ bưng lên lúc gần cuối bữa tiệc. Tiệc cầy thì cứ phải rượu “cuốc lủi” để đưa cay thì mới đúng điệu. Như trên đã nói, thức ăn ngon mà chỗ ăn không ngon thì sẽ giảm cái ngon. Có người lại còn lý luận rằng :chỗ ăn ngon mà không khí không tốt, cũng không ngon, rồi không khí tốt mà không có bạn bè ăn ngon cũng không ngon nốt . Những nhận xét này thật là xác đáng. Cho nên, trong một bữa thịt cầy, cần phải tạo ra bầu không khí vui nhộn, các bạn bè phải là những tín đồ của “đạo Cầy”, biết ăn thế nào để thưởng thức đến tận cùng khẩu khoái.

Nhắm một miếng dồi, đưa cay một ngụm rượu, đưa tay khẽ nhón một miếng riềng trao cho hai chiếc răng tiếp đồng nhận, thời một lá mơ tam thể nhẹ lùa vào trong miệng. Động tác nhai là phải nhẩn nha để cho vị giác thấm thía mùi vị cay cay, cái bùi, cái giòn, cái hăng quyến cuộn lấy nhau tạo thành một âm giai kỳ thú, tan dần vào những dây thần kinh khoái cảm.

Này là món chả nướng. Cứ từ từ, chầm chậm, gắp thong thả đưa lên và tạm ngừng giây lát cho khứu giác thưởng thức mùi thơm tho đã, mặc cho ông thần khẩu nôn nóng.

Cái món nhựa mận bất hủ nữa, chỉ một vài lá húng để sẵn trong lòng bát, múc một thìa “nhựa thịt” cùng với nước quánh đặc, đặt vào mấy con bún, nhẹ nhàng “đun” vào miệng, thong thả nhai rồi từ từ cho “chảy” xuống tận huyết quản.

Với 11 món cầy, mỗi khi bạn dùng vài miếng của một món, và trước khi gắp sang món khác, cần phải có một khoảng thời gian “trống” giữa món nọ với món kia. Cái khoảng trống này, bạn sẽ nhấm nháp bằng những mẩu bánh đa vừng nướng giòn.

Bữa tiệc càng kéo dài càng lý thú, nhất là “Ông Trời” mà chiều các bạn, trút xuống những cơn mưa, gió lạnh thì thật là hợp tình, hợp cảnh thú vị biết bao nhiêu!
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #7594 · Replies: 9 · Views: 30,880

convoiyeuco
Posted on: Mar 24 2006, 06:08 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(too______bad @ Mar 24 2006, 04:50 AM) *

Wow ! Nghe *hung120780 *hieptayninh *convoiyeuco rolleyes.gif Dien ta cac mon an khoai khau trong va ngoai nuoc ma phat them tongue.gif ... Lai co nghien cuu ti mi ve cach che bien nua...kham phuc .. Nu Cong Gia Chanh cua 3 suphu nay co the sanh vai cac ba noi tro cool.gif ... Nhung có 1 thieu sot nho.Cay 7 Mon cung la mon nhau khoai khau cua Dan Nhau VN...Ai biet Cach che bien Thit Cay xin chi giao cool.gif


Lại chuyện Ăn Thịt Chó




Bất thực cẩu nhục, bất tri thiên hạ đại vị,, không ăn thịt chó, thì không biết miếng ngon trong thiên hạ! Cổ nhân thật đa ngôn, ăn to nói lớn. Mấy đám hậu sinh ngông cuồng không kém, tên bồ tèo nối khố HLT, năm gà chưa đi, năm chó chưa tới, y đã la làng, năm chó nói chuyện chó. Tên bồ tèo nối khố khác, tu bíp LĐT, trời trở lạnh trên New Jersey, nghe nói đến chó, vội vã xưng danh ngay: hội trưởng ăn thịt cầy Y khoa Huế, hội trưởng hội ăn nhậu Tổng y viện Cộng Hòa! Tôi e có nợ với tên HLT, đôi khi đọc tạp văn hắn, vật tư lại cồn cào cấn cấn, nghe phè phè trong người, sinh khó ở, nên lại phải ra chiêu, tuy ngoằng nghoèo, nhưng cũng mong dốc được bầu tâm sự.

Lại nữa, đã định tu thân, không xía chi tới chuyện giang hồ, ngồi nhà tay thay tả tay...đếm bạc (mấy chữ ni là bồ tèo HNH tặng tui), bởi đang rung cây nhát khỉ, quyên tiền (đếm bạc) giúp trẻ em mồ côi Việt Nam cho tên bồ tèo khác, NXH, về xứ ăn tết... với trẻ em mồ côi! Nhưng rồi định mệnh éo le, rung cây không có khỉ nữa, hết đếm bạc, thôi thì tay thay tả tay lại múa gậy vườn hoang.

Hắn nói chuyện chó, tu bíp lại là thực cẩu tài tử, nên xin viết vài hàng tào lao, tri âm với hai khổ chủ này. Chuyện ăn thịt cầy, nhan nhản những khảo cứu, bình luận hít hà, nhiều lắm đọc không hết. Khoái khẩu đại tài tử, Vũ bằng Tiên sinh, trong muôn một, đã từng làm rạng rỡ, tuy là một cách kín đáo rào trước đón sau, món ăn dân tộc quốc hồn quốc túy. Chuyện ăn thịt cầy ăn sướng miệng nhưng lại là một tabou, kiêng kỵ, kiêng đả động đến, nên phải ăn nói dè dặt chăng? Hai thế giới Đông Tây không đồng ý trên lãnh vực khoái khẩu này. Tỷ dụ gần đây tổ chức đá bóng FIFA a dua với tổ chức bảo vệ động vật ép buộc Triều Tiên ra lệnh cấm ăn thịt chó trong dịp giải World Cup (2002), cũng như trước đây, dịp thế vận hội tại Hán thành 1988, các tiệm mộc tồn cũng phải tạm thời đóng cửa hoặc di cư tị nạn về đồng quê. Bây giờ đến lượt mấy cha Chệt đỏ, muốn tổ chức Thế vận hội Bắc kinh 2008, là phải dẹp hết mấy tiệm cẩu xực ở kinh đô. Vậy thì lịch sử ăn thịt chó và tiến trình của nó như thế nào?

Cổ nhân Á châu ăn thịt chó từ đời...thời kỳ đồ đá! Thịt cầy thường được gọi là hương nhục, thịt thơm hay địa dương, dê đất. Từ thời tiền sử, con cầy là một trong thú vật đầu tiên nhân loại đã thuần hóa. Cầy đi vào đời sống dân gian, giúp đỡ mở mang kinh tế. Dùng cầy đi săn, trợ giúp văn minh nông nghiệp, giữ dìn nhà cửa trang trại. Truyền thuyết, cầy đi săn, đem về một hột giống, cốc lạp, từ một thiên giới nào đó, khi qua sông đã phải bỏ trên đuôi cho khỏi rớt, hột giống này sinh ra hạt lúa (thóc) hay hạt kê (millet). Nhiều chốn đồng quê Tây Nam Bách Việt, ngày rằm tháng giêng, làm tiệc đãi chó để trả ơn.

Có lẽ vì chó là gia súc chủ chốt trong lịch sử nhân loại, có thể chế gần gũi, cho nên xã hội nguyên thủy đã dùng chó làm tế vật cúng thần linh và tổ tiên. Thế nhưng, tế vật phải là đồ ăn được và ăn ngon, do đó nhân loại bắt đầu xực cẩu! Ai ăn thịt cầy cũng được, trừ phù thủy, vì chó thính mũi, có thể đánh hơi được thần linh, nhậu thịt cầy dzô sẽ mất hết ma thuật! Khởi nguyên sát cẩu từ thời nào, thì không được rõ ràng. Sử Tàu có chép lệ cúng đầu năm, Vu sát cẩu tế tự. Bố Y tộc, một bộ lạc xứ Bách Việt (thân thiết với Lạc Việt) ghi chú chuyện cổ tích, dùng thịt cầy cúng Nhương (lễ cầu giải trừ tai họa) đã cứu nhiều nông dân bị liệt sau khi đi ươm mạ ở các ruộng ẩm thấp.

Xin trình làng một chuyện lịch sử : Từ thời cổ đại, ăn thịt chó là tập tục của Bố Y tộc và lũ hậu duệ (con cháu) nòi Việt, gọi Việt nhân , tức giống Việt. Ngày xưa các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt đều là nòi của giống Việt ở, gọi là Bách Việt. Như giống Âu Việt thì ở Chiết Giang, Mân Việt thì ở Phúc Kiến , Dương Việt thì ở Giang Tây, Nam Việt thì ở Quảng Đông, Lạc Việt thì ở nước Việt Nam ta, tất cả đều gọi là Bách Việt cả. Thành ra lịch sử xực thịt cầy có quan hệ mật thiết với nòi giống Việt!

Sách Quốc ngữ - Việt ngữ thượng chép: Việt Vương Câu Tiễn, nằm gai nếm mật ngọa tân thường đảm, chuẩn bị tái khởi dành lại đông sơn, ra lệ cho quốc nhân sinh nhiều con cái, tăng gia binh nguyên: sinh một con trai, tưởng lệ hai hồ rượu và một con cầy; sinh con gái tưởng lệ hai hồ rượu và một con heo (lợn, lão trư)! Cho thấy quý bà có tin mừng hoan hỉ xực thịt cầy đã đời, và từ thời Câu Tiễn, thịt chó đã được quý trọng hơn thịt heo!

Sử kí Việt Vương Câu Tiễn thế gia còn chép chuyện Phạm Lãi, sau khi giúp Câu Tiễn trả mối thù xưa dẹp tan nước Ngô, Pham Lãi hồi lai Tề quốc, viết thơ riêng cho Đại Phu Văn Chủng, nói "điểu một hữu liễu, nhân môn tựu bả lương cung tàng khởi lai, nhi thố tử đả hoàn liễu, chủ nhân thường thường bả liệp cẩu sát lai cật ", nghĩa chim chết xong rồi, người ta cầm cất cung đi, thỏ đã chết rồi, chủ thường giết chó săn. Chắc là để ăn thịt chứ còn làm gì nữa! Phạm Lãi lại nói Câu Tiễn cổ hươu miệng chim, loại người này chỉ chơi được trong hoạn nạn, lúc thành công nên xa chạy cao bay, tránh tai họa xảy tới. Đó là lai lịch sau này của thành ngữ "Thố tử cẩu phanh", thỏ chết chó săn đem nấu. Cũng là lai lịch "Điểu tận cung tàn", chim chết xếp cung.

Việt nhân và lũ Việt hậu duệ tức con cháu, đưa ảnh hưởng văn hóa "hỉ hoan thực cẩu nhục", hoan hỉ ăn thịt chó, đến những địa khu khác. Quảng đông khi đó xưng là Việt, thời Tần, Quảng đông thuộc địa khu Bách Việt thụ đáo ảnh hưởng ăn thịt chó một cách rất hoan hỉ! Tục ngữ còn nói "Cẩu phạ lão Quảng", chó sợ dân Quảng, ý nói dân Quảng thường mở miệng nghị luận "sát cẩu"! Cũng vì dây dưa địa lý qua Hàn bán đảo (Thượng Hải, Triết Giang...) mà dân triều Tiên ăn thịt chó như điên! Người Triều Tiên, 92% liền ông 68% liền bà, xực mỗi năm 1 triệu con cầy. Vậy thì Ăn thịt cầy là Văn hóa Bách Việt, và dân Việt đã truyền bá và bảo tồn truyền thống văn hóa thịt cầy một cách vẻ vang.

Tình yêu thịt cầy vô bờ bến nảy sinh những luận điệu: " quải dương đầu, mại cẩu nhục ", treo đầu dê bán thịt chó! " phì dương để bất thượng sấu cẩu " dê béo không bằng chó gầy, " nhất hoàng nhị hắc tam bạch " số dách chó vàng, hai chó đen, ba chó trắng. Lí Thì Trân, người Hồ Bắc, đời Minh (1368-1644), danh y dược học gia, trong "Bản thảo cương mục" giới thiệu tác dụng của thịt cầy trong bốn dược phương khác nhau.
Đất Quý châu, dân Bố Y tộc, làm việc quanh năm ở thủy điền, nhậu thịt cầy thường xuyên, khu phong khư thấp và lại ôn bổ thân thể! Cũng ở miền cao nguyên Quý châu đông con cháu Việt nhân, có loại chó Hoa Giang, Hoa Giang cẩu nhục, nổi tiếng số môt, trẻ sơ sinh ơ xứ này mới ra đời đã đòi ăn!

Bắc sử man liêu chép, cho đến nay, dân một bộ tộc tỉnh Tứ Xuyên nếu lỡ vì thù hận mà sinh sát giết nhau, rồi phải "tẩu tị ngoại, cầu đắc nhất cẩu dĩ tạ, bất phục hiềm hận ", chạy đi tị ngoại, tìm được một con cầy làm đồ tự tạ, chẳng phục hiềm lại hận thù nữa! Thậm chí cha con giận nhau động võ, cũng dùng chó để giải hòa! Ngạn ngữ còn nói "đại cẩu nhất đầu, mại nhất sinh khẩu", một đầu chó, mua được miệng người! Do đó mới thấy duyên cớ sâu đậm của tình yêu thịt cầy trong dân gian!

Dân Chệt ăn thịt chó, ở đâu cũng có, thịnh hành nhất là các tỉnh đông bắc và nhất là Quý châu, Quảng tây, Quảng đông, Phúc kiến.
Ở Âu châu, thời tiểu băng kì thế kỷ 14, vì nạn đói, dân chúng ăn thịt cầy. Khi kinh đô Ba lê bị bao vây năm 1870, cũng xẩy ra vụ xực mộc tồn. Nhưng tại là bắt buộc nên phải ăn, chứ không cẩu xực một cách hoan hỉ như dân Việt.
Vấn đề dị ứng giữa đông và tây về khoái khẩu là một chuyện nan giải. Thế nhưng ông tây bà đầm viết báo ở Đức và Pháp, khi trích dẫn Bắc kinh và Hán thành đã thực hiện những tiến bộ đồ sộ trong lãnh vực không ăn thịt chó, thì đó là những tiến bộ chi? Nòi Việt mất cả mấy thế kỷ để có một văn hóa vẻ vang ăn thịt cầy, thế không phải là tiến bộ Kolossal sao!
Cả hoàn cầu ăn thịt heo, nhóm hồi giáo không ăn, thế thì phải khuyên rệp ăn thịt lợn để làm tiến bộ sao? Nhưng chả thấy ai động đến chân lông mấy tên rệp ví sợ khó khăn dầu lửa.
Đức trước đây chê Pháp ăn mấy con ét cạc gô o bơ là dã man lạc hậu, Nhật thuở xưa cũng ăn thịt cầy, bây giờ theo hùa "bảo vệ động vật". Thái dám chửi Việt nam "Đồ ăn thịt chó, cút về nước!". Việt Nam ta cười dân Căm bốt ăn mắm bò hóc...
Thiệt là miếng ăn là miêng tồi tàn, nhưng không khoái khẩu, làm sao nhân loại tồn tại đến giờ phút này? Dân Quảng đông ăn tất cả cái chi có bốn chân, trừ bàn và ghế, tất cả cái chi bay trên trời, trừ trực thăng...
Tôi đã từng ăn bò cạp chiên ở Miến Điện, châu chấu cào cào rang ở Bắc phi, đều hẩu xực cả. Còn thịt ngựa? Ở Âu châu, gia súc ni gần người hơn cẩu, làm ruộng, kéo xe, đánh cá ngựa... nhưng bíp tếch ngựa là món ăn thượng hạng của các thể tháo gia, và giúp cho chốn phòng the nhiều chuyện thoải mái.
Ở Pháp, boucherie chevaline rất được trọng đãi và xịt tếch ngựa rất đắt tiền. Thái lan, Mỹ la tinh ăn cá sấu, dân đồng bằng sông Nil, nhất là dân Ai cập, khoái ăn thịt trâu hơn thịt bò. Xứ mình ăn rùa, rắn, chuột, ba ba, cua đinh...Ơ Trung quốc, nhiều xứ hay thiểu số (Mãn châu, Hà bắc,...) không ăn thịt cầy không phải để bảo vệ chó, nhưng là vì truyền thuyết lịch sử, khi thì chó cứu vua này, khi thì vua kia sống nhờ sữa chó, v v...

Thịt chó hàm tính ôn, bổ trung ích khí, ôn thận mà lại trợ dương. Tráng dương nhiều nên dân Hán dùng làm bổ phẩm cho mùa đông lạnh lẽo. Dân Triều tiên lại nói thịt chó thanh nhiệt khư hỏa! Dân nghiện cầy tơ, biết thịt cầy thơm phức nên gọi là hương nhục, giá trị dinh dưỡng rất cao, 100gr thịt có 14.5gr prồ tê in, 23.5gr chất béo, nhiều potassium, calcium, phosphorus, nhiều loại vitamin và amino acid, tính lại nhập dược, nghĩa là chữa được bệnh có tính cách phổ tế cứu nguy! Vì khư phong khư hàn nên hầu hết các ba chệt ở xứ lạnh phải xực thịt cầy lúc nhập đông, hạt liễu cẩu nhục thang, đông thiên năng bả miên bị đang, uống súp thịt cầy, như mùa đông đắp chăn bông! Y học hiện đại nghiên cứu, chứng minh thịt cầy có vài nguyên tố hi hữu, trị được bệnh tâm não khuyết huyết, điều chỉnh cao huyết áp. Thịt chó rất khả dụng cho lão nhân bị hư nhược, tiểu tiện bất tận, tứ chi lạnh ngắt, tinh thần bất chấn, ăn thịt chó nướng hồng thiêu, các cụ sẽ tăng cường năng lực kháng hàn! Chu choa, ca tụng chi nhiều rứa, mà đâu đã hết. Còn an ngũ tạng, khinh thân, ích khí, bổ vị (dạ dày), noãn yêu tất (ấm lưng đầu gối), ích thận, trán khí lực, bổ ngũ lao thất thương, bổ huyết mạch! Mấy cái ni thì phải nhờ bồ tèo đồng môn PNH, y dược tinh thông, kiểm lại, chứ coi bộ thổi phồng phóng đại dược tính của cẩu nhục quá chừng!

Truyền thuyết nói phẩm chất thịt chó tùy thuộc màu lông chó. Trên đây có kể: nhất hoàng nhị hắc tam bạch, nhiều chuyên gia khác lại cho: nhất hắc nhị hoàng tam hoa tứ bạch. Có kẻ lại nói: hoàng cẩu vi thượng, bạch cẩu thứ chi, hắc cấu vi hạ! Thế nhưng ở Việt Nam tôi lại nghe: Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Chết chửa, thế thì các sư phụ cẩu xực lại ăn nói huyên thuyên, xếp hạng đẳng cấp không ăn khớp với nhau. Nói chung chú vện (hoàng cẩu) được sắp số một hay số hai, còn các chú hắc bạch hoa đốm không được đa số biểu đồng tình một cách thuần nhất! Có lẽ phẩm chất cầy tơ xếp theo màu lông thay đổi tùy theo địa dư và khí hậu? Dân Việt Lạc coi bộ sợ xui, không giám ăn chó đen, nhưng có nhiều đại tài tử lại thích nhất hắc, nhị hoàng,...trong đó hình như có linh mục C V L, Viện trưởng trường Đại học Huế, bạn đồng tình với Lỗ trí Thâm. Dạo đó ở Huế nghe nói ăn cẩu đen chữa lành bệnh lao phổi!

Nòi Việt ăn thịt chó, có Âu, Chiết, Mân, Dương, Nam...mà có lẽ Lạc Việt (dân ta đó!) dẫn đầu về nghệ thuật nấu nướng. Thât vậy, ở Tàu và Triều Tiên quanh đi quẩn lại, cũng chỉ hồng thiêu nướng, thanh đốn luộc, du bộc chiên dòn, lỗ chế đẳng chó hầm với nước dùng nhiều gia vị, hồng thự thiêu cẩu nhục chó nướng khoai (củ mài) đỏ, hoài kỉ đốn cẩu nhục thịt chó chưng cách thủy với hoài kỉ...Ngày xưa có những món thịt cầy nổi tiếng, như Giang tô Bái huyện cẩu nhục, truyền thuyết thời Tần mạt, đại tướng Phàn Khoái của Lưu Bang phát minh ra món cẩu nhục phán tử, ngon dở ra sao hậu sinh không biết! Dân Quảng đông Trạm Giang (Zhanjiang) quanh năm ăn món Bạch Thiết cẩu nhục. Dân thành thị Quảng Châu Triệu Khánh lưu hành món Quảng đông cẩu nhục bao, bao đây nồi đất, món ăn chắc là dog stew trong nồi đất! Ở Cát Lâm (Jilin) Diên Cát, thịnh hành món súp Bổ thân thang, hay thịt chó cù lao hot pot (hỏa oa), với các biến thể hồng tảo (táo đỏ, red jujube) cẩu nhục, can kháo (khốc) cẩu nhục, hương lạt (cay tê lưỡi!) cẩu nhục ti (cắt mỏng) đẳng! Hình như ở Bắc kinh hay Thượng hải, có tiệm Thực quản chuyên về món hot pot hỏa oa này. Tiệm tự hào 2 món độc đáo, nồi đất nung (sành) và thịt chó. Nồi cổ đây do tiệm làm lấy từ bao nhiêu năm, thịt chó là hương thôn phong vị, tức là chó làng, gia vị mua từ Yiyang. Chó làng đây có tiêu chuẩn hoàng giang cẩu, nấu liu riu nhỏ lữa mạn hỏa 3 tiếng đồng hồ, ăn nồi cù lao béo ngậy này rồi cởi trần đi trượt tuyết cũng không thấy lạnh! Muốn chắc bụng và tận hưởng nuớc súp, ăn thêm bún khoai mài, thự phấn...Ở Triều Tiên súp chó gọi là Boshintang, nấu có đủ gia vị của súp kim chi Doenjang, nhưng mấy cha Hàn quốc lại nói ăn súp này để chịu nóng mùa hè, thanh nhiệt khư hỏa! Dân Triều Tiên cho "cẩu nhục thang, dĩ nhiệt trị nhiệt" (súp thịt chó dùng nóng trị nóng). Thiệt là vượt qua núi Pyrénées, sự thật cũng thay đổi, như mấy ông Tây hay nói !

Đọc thực đơn trên đây của các nòi Việt bạn, thấy thật thua xa những món ăn của giống Việt Lạc, vô địch toàn diện trong văn hóa xực thịt cầy! Người Lạc Việt, chắc có thêm một giác thứ sáu ngoài ngũ giác, nên mới có khả năng để có thể tìm tòi và phát minh ra những củ giềng, hũ mẻ, mắm tôm, củ xả, lá na (mãng cầu), lá bí đao, lá lốt, lá mơ tam thể, húng chó, húng giổi, húng quế, húng lìu...vừng, đậu xanh...để tiếp đón mấy chú Cầy về Thiên quốc. Những món ba dzích thịt luộc, chả nướng, dồi, tiết canh, nhựa (rựa) mận, được hỗ trợ thêm bằng các món sườn sào, lòng sào, xáo ninh, óc chó, tái áp chảo, chả lá na...Ở Huế, nghe nói có thêm món thịt cầy xả ớt và cháo chó...Đó là chưa luận đến món giả cầy, bà con với thịt chó.

Thực đơn nghe hấp dẫn sao, chứ đâu phải chỉ có luộc, nướng, chiên, cù lao...Mà không có giềng mẻ thì thịt chó đâu phải là thịt...cầy!

Gần đây có nhiều trước tác rất hữu ích và thú vị về văn hóa thịt cầy. Nhưng Vũ Bằng tiên sinh vẫn là đại học giả số một. Đọc ông viết mới thấy mối tình da diết nóng bỏng của dân ta với các chú cầy tơ. Xin trích vài đoạn dưới đây.

"Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh...Huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?"

Cái dè dặt e lệ của Vũ tiên sinh cũng dễ hiểu. Thương chó nhưng lại thích ăn thịt cầy, nên tâm can ngo ngoe đôi chút phức cảm tội lỗi là chuyện bình thường. Cho nên ngay trong văn chương ca dao tục ngữ, dân ta cũng keo kiệt dè sẻn ca ngợi thịt cầy. Ngoài bài, gần như quốc văn giáo khoa thư, "Con gà cục tác lá chanh, Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, Con chó khóc đứng khóc ngồi, Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng giềng", ít thấy các tuyệt tác! Luẩn quẩn cũng chỉ: "Đàn ông biết đánh tổ tôm / Biết ăn thịt chó, xem nôm Thuý Kiều", hoặc " Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó, Chết xuống âm phủ, biết có hay không?". Món chả nướng thơm phưng phức cũng chỉ được tặng vài câu ca dao:

Cô kia đi chợ đồng quê
Thấy hàng chả chó liền...lê trôn vào
Cặp này anh lấy bằng nao
Ba đồng một cặp lẽ nào lại không
Nói dối là mua cho chồng
Đi qua quãng đồng ngả nón...liền ăn"...
Có bản viết:
Ăn rồi xách nón ra về
Thấy hàng chả chó lại lê chân vào
Chả này bà bán làm sao?
Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng không
Dối rằng lại nghĩ đến chồng
Gần đến cánh đồng ngả nón ra ăn...
Cũng có một số ít ca dao diễn tả phong tục ăn thịt chó ở đồng quê, nhưng cũng không đặc biệt, sâu sắc hay mặn nồng chi cho lắm:
Rượu tăm thịt chó nướng vàng
Mời đi đánh chén cách làng cũng đi.
Thịt chó thì phải có riềng
Thịt lợn thì phải có riêng món hành
Thịt gà cần phải lá chanh
Tía tô cà chuối mới thành ba ba.

Em ngồi gốc cầy,
Em bán thịt chó,
Em lấy tiền bó,
Em lại mua muông.
Anh mà đối đặng,
em theo luôn về nhà.

Ngược lại dân ta lại dùng chuyện ăn thịt chó để chế diễu một cách điêu đứng các đại sư phụ và tiểu sư phụ "hổ mang":
Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không
Em là con gái phủ Từ
Lộn chồng trả của theo sư chùa Viềng
Đói ăn thịt chó nấu riềng
Bán rau mảnh bát lấy tiền nộp cheo
Dù còn thiếu thốn bao nhiêu
Xin làng đừng có cắm nêu ruộng chùa

Nam mô một bồ dao găm
Một trăm giáo mác
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó ...
Một lọ mắm tôm
Một ôm rau húng
Một thúng rau răm

Tiểu tôi tiểu kính tiểu hiền
Bao nhiêu chùa chiền tiểu đốt, tiểu đi
Thịt chó tiểu đánh tì tì
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì, cắm chông
Nam mô xứ Bắc, xứ Đông
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.

Ba Chệt thích ăn thịt chó nhưng cũng biếng nói. Lơ thơ lếch thếch, cũng chỉ thấy, " cẩu nhục cổn tam cổ, thần tiên trạm bất ổn ", thịt chó uốn ba cuốn, chốn thần tiên không an!, hay " văn đáo cẩu nhục hương, thần tiên yếu khiêu tường", nghe thịt chó thơm phức, thần tiên nhảy rào! (hoặc " văn đáo cẩu nhục hương, phật gia dã khiêu tường " , đây thì Phật cũng nhảy rào!). Và cũng để khẳng định (sic): "cẩu nhục thượng ất liễu chính tịch", "cẩu nhục tại lịch sử thượng thị đê cấp thực phẩm" . Ý nói trong lịch sử, thịt chó là món ăn sơ bộ của nhân loại. Thế sao mấy ông Đức, Pháp, Mỹ, vv... lại sủa gâu gâu?
"Sao mà có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm được cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trời? Gắp một miếng chấm muối chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành. Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là "sốt sích". Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừn sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏi."

Ấy ấy, Vũ tiên sinh đi hơi xa và chủ quan hơi nhiều đấy! Con heo là bạn thân số một của dân Đức. Họ ăn từ đầu đến móng, chỉ trừ lông, và làm đủ thứ sốt sích, đen có trắng có, đỏ au là sốt sích Phờ răng phục kờ. Chiều về, ngồi quán nhậu ở quảng trường trước nhà thờ lớn Cô lô (Cologne), sực mầy loại sốt sích nướng với mù tạc cay xè, tu liên miên những ly bia nâu (biere brune) nửa lít, khề khà nhìn ráng mặt trời còn rớt lại trên kính ghép màu (vitrail) cửa nhà thờ, thì cũng thấy lục phủ ngũ tạng chú ủn ỉn đoàn kết với mù tạc la de thành một tổ hợp bất khả chia lìa để tiết tấu một trường khúc không kém hùng dũng và oai nghiêm, để đối với dồi chó!

"Cái giống chó 'bẹc giê', 'pê ki noa', cái giống chó 'bát sê' cũng như giống 'phốc', nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn thịt được. Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá ăn không ra cái 'thớ' gì. Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông cụ".

Khổ quá, khổ quá, gần đây các lãnh đạo tối cao Chệt đỏ, hỉ hoan xực một loại cầy nhập cảng từ Âu châu. Các ông trời con mua chó Sanh Bẹc Na (Saint Bernard) về nói là để nuôi, nhưng là để đánh chén. Nghe nói thịt dòn (crisp), thơm, bổ đủ mọi chuyện. Nước Thụy Sĩ đã làm rùm beng về xịt căng đan này, vì Sanh Bẹc Na là chó cưng vùng miền núi, biết làm nhiều việc và có tài tìm ra người gặp tai nạn tuyết đổ bị chôn vùi.

Dân ghiền cẩu nhục, thường dùng ba xi đế để chén chú chén anh, rất đúng điệu. Nhưng ăn thịt chó phải tránh uống trà tàu. Tannic Acid trong trà kết hợp với protein đản bạch chất thịt cầy, hội sinh thành sản chất gọi nhu toan đản bạch an bu min ta nin, một chất độc rất có hại cho cơ thể.

Nhậu cờ tây, hiện tại, cũng có nhiều kẻ thù. Trước tiên là bệnh chó điên, cuồng khuyển bệnh. Dân nhậu chó luộc, chó nướng và nhất là cù lao hot pot thì săng phú! Họ quyết định là với nhiệt độ và áp xuất cao vi rút bị diệt và không thể truyền nhiễm. Vi rút chó điên nẩy nở ở não và tủy sống, rất nhiều ở thóa dịch tuyến và nước miếng, nên dễ sinh lây nhiễm. Bà con coi chừng không nên ỷ y, thống kê cho thấy Việt Nam, 1996 - 2000, có gần 2.700.000 trường hợp bị chó dại cắn phải chích ngừa, 664 trường hợp đã tử vong! Bây giờ, thịt cầy lại bị SARS hăm dọa, Quảng đông đốt cả mấy chục ngàn cờ tây. Rồi tới cúm gia cầm. Thét rồi, nhân loại chắc ăn giống chi cũng hết được, e rồi chỉ còn ăn cá gỗ!

Một vài chuyện lạ liên hệ đến ăn thịt cầy. Ngày xưa có chuyện trảm mã trà, tức cho ngựa ăn trà xanh, đợi trà ngấm với dịch vị (suc gastrique), giết ngựa lấy trà từ bao tử phơi khô. Giờ ni có dzụ cà phê Kopi Luwak ở Indonesia. Số là cầy hương hảo ăn quả cà phê, không tiêu hóa được hột, hột theo phép vệ sinh thải ra ngoài. Dân trồng cà phê lượm hạt chó sa thải, rửa sạch và rang nghe thơm phức mùi cả phê và mùi...khuyển, bán trên trăm đô một pao, trong khi cà phê đắt tiền chỉ bán vài chục đô một pao! Cũng nhắc lại chuyện tu bíp hảo xực cẩu kể: Dân Kê bếch qua, Gia nã đại, thiệt cắc ké, triệt để muốn độc lập không xài Anh ngữ, nên trao bảng bán "Chien chaud". Mấy trự hảo cầy tơ tưởng bở nhào dô, hóa đây là hot dog!

Kỷ niệm chó của tôi ư? Thiếu chi. Nhất là lúc chạy tản cư những năm 45-46! Trẻ thơ đã thấy thịt cầy là bạn, huống chi trong nhà lại chả thiếu những phát minh hi hữu. Bà chị Huệ tôi gói giò chó ngon lắm, hình như ông bác cán bộ cao cấp vixi đến ăn rồi nhậu ba sợi, trên đường về đạp thẳng xe máy xuống sông nông giang! Lúc có dịp vui, ăn thịt chó, lúc buồn có tang, khi bà ngoại tôi qua đời, cũng hạ con cầy cám ơn cô bác và hàng xóm. Gần đây có bà chị về làng thăm quê, bỏ tiền đãi bà con. Hạ 3 chú vện, làm tám chiếu. Thế nhưng lệ làng, nên bà chị cũng phải ngồi chiếu dưới vì là phận liền bà! Trong khi tôi vẫn xổm tọa chiếu trên! Chuyện ấm ức là nghe thấy nấu thịt cầy đủ hết mọi dạng, kể cả cà ri chó, chưng chưa nghe nói đến phở chó!

Chuyện chó thì còn dài dòng văn tự lắm. Nhưng sao lại nói chó chết, hết chuyện, không biết có đúng không? [size=6]
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #7593 · Replies: 9 · Views: 30,880

convoiyeuco
Posted on: Mar 24 2006, 05:46 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(too______bad @ Mar 24 2006, 04:50 AM) *

Wow ! Nghe *hung120780 *hieptayninh *convoiyeuco rolleyes.gif Dien ta cac mon an khoai khau trong va ngoai nuoc ma phat them tongue.gif ... Lai co nghien cuu ti mi ve cach che bien nua...kham phuc .. Nu Cong Gia Chanh cua 3 suphu nay co the sanh vai cac ba noi tro cool.gif ... Nhung có 1 thieu sot nho.Cay 7 Mon cung la mon nhau khoai khau cua Dan Nhau VN...Ai biet Cach che bien Thit Cay xin chi giao cool.gif



CONTINUE

Tìm tri kỷ

Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, thì quả là thấy thiếu thốn rất nhiềụ
Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh... huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao ?

Thực vậy, có ai một buổi chiều lất phất mưa xanh, trời căm căm rét, mà ngả một con cầy ra đánh chén với đôi ba bạn cố tri mới có thể cảm thấy rằng không phải đời lúc nào cũng không đáng để cho người ta sống.
Rõ ràng là mình đương buồn muốn chết, người ủ rũ ra, mà "làm một bữa" vào, chỉ giây lát là "nó sướng tỉnh cả người ra", không chịu được.
Tôi có thể cam đoan với các anh: Một người thất tình, muốn đi tự tử, nếu người ấy biết thưởng thức món thịt cầy, mà các anh lại mời y dùng chơi chút đỉnh rồi muốn đi chết đâu hãy chết, tôi có thể tin rằng mươi bận thì chín bận ăn xong anh ta sẽ đổi ý định ngaỵ

Là vì đời có thịt cầy, thỉnh thoảng ăn chơi một bữa ta thấy nó cũng bõ để cho ta sống, mặc dù có nhiều lúc cái kiếp con người còn khổ hơn cả cái kiếp con chó vài ba bực.
Lo cho con học, vợ hỏi tiền làm giỗ; phắc tuya đèn chưa trả; nhân tình dọa bỏ đi; cuối tháng, lại phải đến chủ nhà hỏi xem hắn có bằng lòng cho thuê nữa hay không... bao nhiêu nỗi lo âu khốn nạn nó làm cho lòng người ta day dứt!
Những lúc đó, ăn vàng vào miệng cũng không ngon. Ăn vàng vào miệng không ngon, nhưng ăn một miếng chả chó, ta lại muốn ăn hai để chờ món tái đem lên, ta vừa nhắm nhót và suy nghĩ trong khi đợi món dựa mận, chết chết.....
Sao nó ngầy ngậy, béo béo, ngòn ngọt mà lại có thể thơm đến thế!

Ta tự bảo: "ờ mà, sống ở đời bất quá nhiều lắm cũng chỉ đến sáu, bảy chục năm là cùng. Mà trong sáu, bảy chục năm đó, ngày vui quá ít, lo âu, sầu não lại nhiều, thế thì tội gì lại chuốc phiền khổ vào người cho mệt! Ngả con cầy ra đánh chén! "Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?".
Thôi thì được ngày nào hãy cứ biết chiều ông thần khẩu ngày ấy đã, sau ra sao sẽ liệu, ấy thế mà chưa biết chừng ăn một bữa cầy vào, cái vận mình nó lại chuyển hung thành cát, chuyển đen thành đỏ thì lại càng hay, chớ có sao đâu ?

Thật vậy, thịt cầy ở nước ta không phải là một món ăn như thịt dê, thịt lợn, nhưng nó lại còn là một niềm tin tưởng trong dân gian nữa.

Vận đương xúi quẩy, ăn một bữa thịt chó vào, người ta rất có hy vọng giải đen. Đánh bạc thua liền ba đêm, này ! Ăn một bữa thịt chó, có người gở lại hết cả tiền thua, mà lại còn được thêm là khác.

Thử hỏi trong tất cả các món ăn trên thế giới có món ăn nào khả dĩ lại di chuyển được vận hạn của con người đến thế hay không?
Nhưng dẫu sao, chuyện di chuyển vận hạn cũng là chuyện của tương lai huyền bí. Nói ngay đến chuyện thiết thực ở trước mắt mà chơị.
Một chiều mưa phiêu phiêu ở chốn đồng ruộng căm căm gió rét, không đi chơi đâu được, mà trãi một cái chiếu lên thềm gạch ngô, đưa cay vài chén tửu, trước mặt có một mâm thịt chó làm đủ các món: chả, tái, ca ry, dựa mận, chạo, nem... riêng cứ trông thôi, ta cũng đã thấy lòng phiêu phiêu như mở hội rồi

Thịt luộc đỏ tươi, bì vàng màu da đồng, đặt bên cạnh đĩa rau húng chó; vài dĩa riềng thái mỏng tanh; chả nướng béo ngậy, màu cánh gián; đĩa bún trắng bong nằm cạnh những bát hầm dựa mận màu hoa sim; những liễn xào nấu với chuối "chưa ra buồng" thái con bài; những đĩa dồi tươi hơn hớn, miếng thì trắng, miếng thì hồng, miếng thì tím lợt, đôi chỗ lại điểm những nhát hành xanh màu ngọc thạch... tất cả tiết ra một mùi thơm làn lạt như mùi hoa đồng thảo lại ngồn ngộn như mùi thịt gái tơ.. xin hỏi có ai mà chịu được, không thưởng thức một hai miếng làm duyên?

Người chưa ăn bao giờ ăn thử một miếng lại muốn ăn hai, còn người đã biết ăn rồi thì phải nói rằng trông thấy thịt chó mà không được ăn thì buồn bã ủ ê, nếu không muốn nói là bủn rủn chân tay, bắt chán đời muốn chết.

Thôi, hãy xếp mọi thứ ưu phiền lại, cầm đũa "làm" mấy miếng đi, người anh em !

Xin mời ! Rượu này là thứ rượu sen cất ở Tây Hồ nhưng không xóc, uống vào một tợp mà như uống cả một làn sen ngào ngạt của Hồ Tây ngạt ngào vào bụng.

Nhắm một miếng dồi, lại đưa cay một tợp rượu, rồi khẽ lấy hai ngón tay nhón một ngọn rau húng điểm vào một vị hăng hăng, man mát cho tất cả cái bùi, cái béo, cái cay, cái mát, cái hăng quyện lấy nhau, anh sẽ nói với tôi cảm tưởng của anh ra thế nàọ..

Quả vậy, nếu sau này, người ta chết xuống âm phủ mà không có dồi chó để ăn thì âu cũng là một mối hận thiên thu mà ta cần phải đề phòng ngay tự bây giờ.

Óc chó có tiếng là ngon, nhưng có ý vị, càng ăn càng thấy ngon thì chính là dồi chó. Sao mà lại có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm một cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trờỉ.

Gắp một miếng chấm muối chanh, rối đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đở nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành.

Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là "sốt sích". Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông?

Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi Tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừng sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏị
Nhưng muốn thưởng thức một món cầy cho thật nổi vị, ai cũng sẽ phải công nhận với tôi không có gì "điển hình" hơn món chả.

Có một hôm trời lạnh bàng bạc màu chì, đứng tựa vào một hàng rào dâm bụt xanh, hoa đỏ, ta gọi một hàng thịt cho gánh đi qua mua một đĩa chả vào trong nhà nhắm rượu, cái ngon cũng đã "lẫm liệt " lắm rồị.
Vậy mà nói cho thực, cái ngon đó chưa thấm với cái ngon của một món chả do một người hiền nội trợ khéo chiều chồng đã làm ra, nó tinh khiết mà lại đủ vị hơn nhiều, ăn vào đến môi, trôi liền đến cổ, ôi, thơm phải nói là... điếc mũi !

Là bởi vì các tiệm thịt chó, cũng như những hàng thịt cho gánh rong, không thể nào làm các món thực công phu, thực đúng kiểu, theo như ý chúng ta mong đợị.
Muốn làm một món chả chó thật đúng với ý thích, người ta phải mất công phu nhiều hơn thế. Có thể bảo rằng ta phải tốn công phu y như thể nuôi chim yến đẻ.
Trước hết, không phải là cứ có tiền ra chợ mua bất cứ con chó nào về thịt rồi làm thành món ăn mà ăn được cả đâu .

Riêng một việc lựa con chó "dùng" được cũng là cả một sự tìm tòi, học tập công phu rồị "Chó già, gà non", câu nói cửa miệng của người ta là thế: ăn thịt gà tìm gà non mà làm thịt, chó phải là thứ chó già mới thú.
Nhưng thực ra, theo những người giàu kinh nghiệm, thịt chó già thường nhạt nhẽo, mà ăn hơi bã. Muốn cho thực ngon, phải là cái thứ chó không già mà cũng không non - cái thứ chó "chanh cốm" trung bình từ hai năm tới hai năm rưỡi, cái thứ chó mà nếu các bà cho phép, ta có thể ví với các thiếu nữ dậy thì "xanh lên ngọn tóc, nhựa căng vú đào".
Song le, đừng tưởng chọn như thế mà đã đủ. Tuổi tác của con chó mới là một điểm mà ta cần lưu ý. Còn phải lưu ý nữa là bộ lông con chó, chớ không phải là cứ là chó thì "hầm bà là" cả một lứa đâụ.
Theo các chuyên viên ăn thịt chó, sắc lông ảnh hưởng tới mùi vị của thịt rất nhiềụ Cái giống chó "bẹcxgxiê" , "pêkinoa", cái giống chó "bátsê" cũng như giống "phốc", nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn thịt được. Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá, ăn không ra cái "thớ" gì.

Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông cụ.

Người Tàu thường cho rằng những người hen suyễn hoặc suy chân thận mà ăn thịt mèo đen, không có một cái lông trắng nào, thì bổ ngang uống rượu ngâm bách nhật hươu bao tử.
Giống chó thì không thế. Cái anh chó mực không được trọng dụng như mèo đen. Những người sành ăn thịt chó cho rằng nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm, ngoại trừ ra đều "không trúng cách" cả - tuy vẫn biết rằng cứ ăn thịt chó, mà lại thịt chó ta, thì đã ngon chết đi rồị..
Ấy đấy, trong bốn thứ chó bạch, vàng, khoang, đốm đó mà ta vớ được một anh giết thịt, nhất thiết ta không thể làm cẩu thả.
Trái lại, phải cẩn thận từng li từng tí, mà có khi càng cẩn thận bao nhiêu thì lúc ngả ra đánh chén lại càng thấy thú vị bấy nhiêụ.

Bởi thế, tôi đã từng thấy có những người thui chó tử công phu y như thể một nghệ sĩ đem hết tâm cơ ra để tạo nên một đứa con tinh thần lưu lại cho hậu thế.
Con chó giết rồi, rửa ráy sạch cứ như ly như lau, treo lên cho khô hết nước rồi mới thui.
Thui bằng rơm.
Thui cả con.
Thui xong, đem ra mổ, cắt đầu, cắt chân để riêng ra, duy chỉ lấy bộ lòng, làm thực kỹ, gia giãm đậu xanh, hành tỏi thực thơm cho vào đấy, rồi lấy những cành lá ổi bọc thực kín con chó lại, bọc cho dày, ngoài lại phủ một lần lá chuối, dàn hậu mói lấy bùn quánh đắp ra phía ngoài cùng.
Đoạn bắc kiềng lên, đặt chó vào, chung quanh chất củi cho những đầu củi chụm vào với nhau ở phía trên, kiểu những cái "tăng" hướng đạo, rồi đốt, đốt cho cháy hết củị
Củi tàn, còn than cũng đừng bắc ra vội, cứ để âm ỉ thế, cho đến khi than tàn hẳn.
Nói thì dể, nhưng làm trọn công việc đó cũng mất mấy tiếng đồng hồ. Những nghe mà sốt ruột.
Nhưng thữ tưởng tượng lúc gỡ bùn, giở lá chuối và lá ổi ra mà thấy con chó béo ngậy, cái da cái thịt óng a óng ánh, cách gì mà lại không bắt thèm nhểu nước miếng ra, đòi ăn cho kỳ chết thì thôị.
Nhưng mà ăn ngay thì còn ra cái quái gì. Phí cả thịt đi: muốn nên miếng chả, còn là lắm chuyện.
Riềng già giã cho thật kỹ, đấu với mẻ, gia thêm vào đủ mắm tôm, để đấy cho ba thứ cấu kết với nhau thành một khối chặt chẽ, rồi mới bóp vào với những miếng thịt thái không to không nhỏ, cứ độ vào một đốt ngón tay cái là vừạ Đừng lấy ra ngaỵ Hãy ướp tất cả chừng vài tiếng đồng hồ rồi hãy lấy ra xếp vào một cái cặp chả, đặt lên trên than hồng mà nướng. Này, nướng chả chó, kỵ nhất cái thứ than tây đấy nhé. Nướng bằng củi cũng không được.
Phải nướng bằng than tàu, quạt liền tay cho đỏ, mỡ có rỏ xuống than đừng tiếc.
Mỡ đó vào lửa, bốc lên thành khói, khói đó quyện lấy chả, tạo ra một mùi vị đặc biệt không tiền khoáng hậu, thơm phưng phức nhưng không khô, thanh thoát cao sang mà vẫn gần nhân loạị

Một người đau bịnh nặng, nằm ở bên cửa sổ nhìn ra giàn hoa thiên lý, chợt ngửi thấy mùi thịt bò xào hành tây, có thể ngấy mà lợm giọng; một người có chứng nhức đầu tự nhiên thấy bay đến trước mũi mùi chả lợn nướng có thế thấy khó chịu vì mùi tuy thơm nhưng có ý hơi nóng; nhưng ngửi đến mùi chả cầy ngát trong gió hiu hiu, ta có thể chắc chắn là người khó tính đến mấy đi nữa cũng phải thấy như cởi gan, cởi ruột.
Gắp một miếng thịt chó đó, đừng ăn vội, hỡi người háu ăn ơi !

Cứ từ từ, chầm chậm để làm khổ ông thần khẩu đã !

Anh đưa miếng chả lên trước mắt mà xem: miếng thịt cứ săn lại như thịt một người lực sĩ, mà bóng nhễ bóng nhại một cách mới lành mạnh làm sao ! Nó thơm quá đi mất thôi, anh ạ.
Thơm quá chừng là thơm, thơm không phải chỉ làm khổ riêng khứu giác của những người ở trong nhà mà thôi đâu, còn làm khổ tất cả láng giềng, hàng xóm. ở cạnh những người ăn ngon như thế, mình lâu lâu mà không được "thưởng thức", cũng có khi phải phát bực lên mà "ai oán" cho cái kiếp người không được mấy khi xứng ý.
Chả chó cũng như thịt luộc, ăn cho thật hợp giọng không nên chấm nước mắm, mà chấm với muối chanh.
Ai thích cay, ăn vài miếng lại cầm cái cuống xanh của một trái ớt đỏ, cắn một chút, một chút thôi, rồi vừa ăn vừa suy nghĩ thì mình dù lãnh đạm với cuộc đời đến bực nào cũng phải thương hại cho những ai không biết thưởng thức mùi thịt chó !
Tài thế, sao mà cứ cái thịt ấy làm món gì ăn cũng cứ ngon. Ờ có thể anh không thích tái chó, đuểnh đoảng với món nem chạo, thấy món cary chó cũng ngon nhưng không thú vì nó không được thuần túy Việt Nam; nhưng đến cái món dựa mận thì nhất định cả trăm người ăn thịt chó đều phải công nhận đó là một món ăn bất hủ !

Chẳng biết ông tổ nào nhà mình, trong một phút xuất thần, lại nghĩ ra một món kỳ tuyệt đến như thế được?
Tôi dám nói quyết với các anh rằng có nhiều lúc ngồi thưởng thức cái món đó, tôi đã từng ví với bản nhạc "Le Danube Bleu" của Johan Strauss.
Nó dìu dặt khoan thai, cuồn cuộn một cách êm dịu, có đôi khi lại như nhảy nhót lên trong ánh sáng.

Ấy đấy, cái món dựa mận vào trong miệng nó cũng từa tựa như thế đấỵ Thoạt mới dùng, ta thấy nó dìu dịu, hiền hiền, nhưng điểm mấy lá húng cho vào rồi đưa đi mấy lá bún trắng tinh, chấm với cái thứ nước quánh đặc một màu đào mận, ta thấy nhạc điệu khác hẳn đi, khác nhưng từ từ, chậm chậm, theo thứ tự từng gam một, chớ không lỡ điệu, không đột ngột.
Khẩu cái ta như nhảy múa tưng bừng, có lắm lúc tưởng chừng như có cái gì sắp "hỏng kiểu", làm cho ta hơi sợ; nhưng tài tình là chính lúc ta sợ như thế thì sự ngang trở uyển chuyển vuợt qua một cách thần điệu và tạo nên một nét nhạc mới thần tình đến lạ lùng.

Song đừng tưởng rằng muốn hưởng một "nhạc điệu" như thế vào trong lòng mình là một công việc dễ dàng đâu ?
Thực vậy, món dựa mận muốn ăn cho ra ăn, cần phải làm công phu rất mực, có khi còn công phu hơn cả món chả là khác nữạ.
Thịt chó thơm mà ngọt, thui vàng ngầy ngậy lên rồi, đem ra nấu dựa mận mà không quánh, đưa bát đựng dựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri của bảy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấụ
Muốn có một bát dựa mận thật là gia dụng, ta cần phải chú ý tới ba thứ nòng cốt là mắm tôm, riềng và mẻ.
Mắm tôm phải là thứ mắm tôm "tiến", lọc cho sạch; riềng giã thật kỹ, cần nhiều, kém thì không dậy mùi; mẻ cũng phải lọc đi lọc lạị.
Ba thứ đó trộn với nhau thực đều, gia thêm hành muối vừa độ, ướp với thịt chó sống, sau khi đã bóp kỹ rồị
Tất cả để đó, chừng một tiếng đồng hồ, chớ có đụng vào, rồi hãy lấy ra ninh.
Chó già ninh kỹ, chó non đun vừa tớị.
Nhưng dù là chó già hay chó non cũng vậy, điều phải nhớ là không bao giờ nên gia nước - dù là nước xuýt - riêng cái tiết chó đánh vào cũng đủ làm cho nổi vị lên rồị
Nói đến tiết chó, ta cũng nên biết một chút về cách mổ chó thế nào cho lông tơ của chó không rụng vào trong bát tiết.
Thường thường, người ta cắt tiết chó như cắt tiết lợn. Song, những người cầu kỳ muốn tận hưởng một bữa thịt chó thật "ra trò" không chịu làm như thế, nhưng lại vẽ ra thêm một "mốt" xét ra cũng vô hại trong nghệ thuật "đả cẩu" ở nước ta; họ tìm đúng cái mạch máu lớn ở nơi giữa cổ con cầy mà cắt; máu ra, họ cho một ống tre con vào mạch máu đó và truyền tiết vào trong một cái liễn lau rửa kỹ càng.
Sự thực, tiết đó không đặc biệt gì hơn thứ tiết cắt thường, nhưng được một điều là không có lông tơ chó lẫn vàọ
Vả chăng, ai lại còn không biết rằng đối với các ông ẩm thực rỗi rãi thì giờ quá, làm một món ăn càng cầu kỳ, tỉ mỉ bao nhiêu thì họ vẫn thường tưởng tượng càng ngon miệng bấy nhiêụ
Trí tưởng tượng của người ta ẻo ọe y như người đàn bà trẻ đẹp: chiều thì thích, mà quên đi một chút thì "mặt lưng mày vực" ngaỵ..
Chính cũng vì lẽ đó, có nhiều ông ở nhà quê làm dựa mận ngon chết đi được rồi, mà vẫn không chịu ăn ngay, lại còn cầu kỳ muốn cho nó phải "đông" mới thú.
Mà ở nhà quê, thường thường không có tủ ướp lạnh thì mới biết làm sao đâỷ Đừng lo. Người sành ăn uống cầu kỳ cũng như người ghiền a phiến vậỵ
Dựa mận mà xong đâu đó cả rồi, không đụng tới mà cho vào trong một cái hũ, bịt kín lại, lấy dây thép quấn chặt rồi trát bùn ở ngoài, lẳng xuống đáy ao một ngày một đêm mới vớt lên.

Chao ôi, có cầu kỳ một chút kể cũng bõ cái công vất vả !

Ăn miếng dựa mận đông đó, nó tỉnh người ra như con sáo sậu, ông Ba ạ. Lạ miệng, bùi, ngầy ngậy, thơm thơm...
Quái lạ đến thế là cùng ! Thịt chó chất nóng, "sốt" thì lạnh, hai cái mâu thuẫn đó, ngồi mà nghĩ tưởng chừng như không thể nào dung hòa được với nhau; ấy thế mà ngờ đâu nó lại y như thể là đại số học vậy; hai cái "trừ" cộng với nhau thành ra "cộng", lựa là cứ phải một âm và một dương.
Có người đã nói thức ăn ngon mà chỗ ăn không ngon, không ngon; chỗ ăn ngon mà không khí không ngon; không ngon; không khí ngon mà không có bè bạn ăn ngon cũng không ngon.
Câu đó đúng.

Nhưng tôi muốn thêm vào "Tất cả đều ngon, nhưng ăn ngon mà không đúng thời tiết cũng không ngon nốt".

Lắm lúc ngồi nhắm nháp một chén rượu tăm cất ở Tây Hồ, thưởng thức một mình một đĩa tái chấm muối tiêu, chanh, ớt, tôi vẫn thường nghĩ hình như trời sinh ra thịt chó là để ăn riêng ở Bắc Việt, chứ không phải ở bất cứ đâu đâụ Từ tháng Tám trở ra, trời Bắc Việt nặng những mây mù, đìu hiu một ngọn gió hanh hao, lành lạnh, gợi nhiều niềm tưởng nhớ xa xưạ
Lòng mình không buồn não nuột, nhưng sầu nhè nhẹ và mình ưa cái sầu đó, bởi vì nó không hại người mà lại nên thợ Đó, chính ở trong tâm trạng đó mà thưởng thức một bữa thịt chó thì không còn gì hợp lý, hợp tình, hợp cảnh hơn.
Lòng đương lạnh tự nhiên thấy ấm; đời đương bàn bạc bỗng tươi lên một nét đậm màụ Một thức ăn mà có lúc thay đổi được cả nhân sinh quan của người ta, âu cũng là một cái lạ ít khi thấy vậỵ

Vì thế, nhiều khi ngồi trong nhà trông ra giàn thiên lý để cho lòng lắng xuống, tôi vẫn thấy cần phải tha thứ cho nhứng nhà tu hành chỉ vì quá yêu cái đẹp, cái ngon, lẻn ra đi xơi thịt chó mà bị mang cái tiếng xấu là "hổ mang, hổ lửa". Chao ôi, một Lỗ Trí Thâm, một Hồ Quỳ, làm sao mà chịu được sự câu thúc của một thủ tục chật hẹp không cho người ta sống tự do - tự do tư tưởng, tự do thưởng thức, tự do ẩm thực?

Nếu tôi có tài,tôi quyết sẽ phải viết một loại bài đăng báo cổ súy những nhà hữu trách trong các giáo phái nên để cho các vị tu hành "đả cẩu" tự do, và hơn thế, lại dùng thịt chó vào trong lễ tam sinh nữa, bởi vì theo các truyện kể trong dân gian thì dường như các ông thổ địa, các ông Thần Trà, U ất Lũy, kể cả vua Diêm Vương nữa, cũng ưa món ấỵ Thần mà còn thích thịt chó, huống chi là người !

Trong các truyện cũ của Tàu, người ta thường thấy có những con hồ ly tinh gần thành chánh quả mà chỉ vì trong một lúc thèm thịt đàn ông, con trai đã làm điều càn bậy để đến nỗi phí cả mấy ngàn năm tu luyện.
Ngồi mà suy nghĩ, tôi tưởng thịt đàn ông con trai, đối với các con tinh cái, ngon bất quá cũng chỉ bằng đến thịt chó đối với chúng ta là cùng.
Chẳng thế mà thịt chó đã thành ra món ăn được ca tụng trên cửa miệng mọi người, và hơn thế, lại còn đi sâu cả vào trong văn chương bình dân nữạ

Đàn ông biết đánh tổ tôm,
Biết ăn thịt chó, xem nôm Thúy Kiều

Thịt chó, thịt cầy, thịt "sư tử đất', bao nhiêu danh từ được đặt ra, nhưng "làng đánh đụng" vẫn cho thế là chưa đủ, nên luôn luôn những danh từ mới vẫn được người ta "sáng chế", không ngoài mục đích đề cao món ăn "số dách" kia: thịt chó còn có tên là mộc tồn - ra cái ý rằng mộc tồn là cây còn, cây còn là con cầy; nhưng linh động và ý nghĩa, chính là cái danh từ "hương nhục" - thịt thơm.

Này, có dịp nào gặp người biết thuởng thức thịt cầy, anh thử nói về thịt chó mà xem.
Một trăm lần như một, anh sẽ thấy người ấy bắt đầu như thế này :"Không có thứ thịt gì lại có thể thơm như nó..."
Nhưng dù thơm, dù ngon, dù ngọt, dù bùi, bao nhiêu "đức tính" đó đã thấm vào đâu với cái đức tính bao quát của thịt chó trong công cuộc thống nhất dân tâm, san bằng sự phân biệt giữa các giai cấp trong xã hộỉ
Thực vậy, tôi đố ai lại tìm ra được một miếng ngon nào khã dĩ liên kết được dân ý đến như vậy, một miếng ngon mà từ vua chí quan, từ quan chí dân, từ ông tư bản đến người làm công, thảy đều ưa thích, thảy đều dùng được, thảy đều thèm muốn, thảy đều công nhận... "ba chê".

Ôi, cứ nghe người ta nói thì đổ thóc giống ra mà ăn !
Ăn thịt chó là thiếu văn minh, ăn thịt chó là bẩn thỉu, ăn thịt chó là bất nhân bạc ác... và còn gì nữa, và còn gì gì nữa !
Người ta viện lý con chó là bạn của loài người, ăn thịt chó là mọi rợ, thế thì tại sao con ngựa, "một chinh phục cao cả nhất của loài người" mà người Âu Mỹ cũng đem ra "đánh chén"?

Bảo là con chó ăn bẩn, thế thì con gà, con lợn, con cá ăn uống sạch sẽ ư ? Không.

Con chó là con vật để cho người ta ăn thịt; ăn thịt chó không khác gì ăn thịt thỏ, ăn thịt nai, ăn thịt bò. Huống chi thịt chó lại còn ngon và bổ; vì thế tôi cho rằng mặc dầu người ta đàm tiếu thế nào đi nữa, thịt chó vẫn cứ là một món ngon bất diệt của dân ta và tôi tin rằng: "Nước ta còn, thịt chó còn" mà văn hóa ẩm thực của ta mai sau hay, dở là ở điểm có biết duy trì thịt chó hay không vậỵ[size=5]
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #7592 · Replies: 9 · Views: 30,880

convoiyeuco
Posted on: Mar 24 2006, 05:36 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


QUOTE(too______bad @ Mar 24 2006, 04:50 AM) *

Wow ! Nghe *hung120780 *hieptayninh *convoiyeuco rolleyes.gif Dien ta cac mon an khoai khau trong va ngoai nuoc ma phat them tongue.gif ... Lai co nghien cuu ti mi ve cach che bien nua...kham phuc .. Nu Cong Gia Chanh cua 3 suphu nay co the sanh vai cac ba noi tro cool.gif ... Nhung có 1 thieu sot nho.Cay 7 Mon cung la mon nhau khoai khau cua Dan Nhau VN...Ai biet Cach che bien Thit Cay xin chi giao cool.gif


[Mộc Tồn Niên Kỷ


Tôi đọc các bài viết về Chó từ văn chương của Vũ Bằng, Tạ Xuân Thạc, Ngô Nhược Tăng, Nguyên Nguyên,... đến Nguyễn Thế Cường, Lê Thế Vinh, Nguyễn Tuân. Mỗi người kể về chó theo mỗi nét, từ sự trung thành của loài vật gần gũi với con người này đến những món ăn cầu kỳ của loài nai đồng quê hay mộc tồn cho đời mua vui. Trong bài "Thịt Cầy" của nhà văn Vũ Bằng, ông mô tả về đặc sẳn cầy tơ thịt mềm mại nghe như nhỏ dãi:

"Thật vậy, thịt cầy ở nước ta không phải là một món ăn như thịt dê, thịt lợn, nhưng nó lại còn là một niềm tin tưởng trong dân gian nữa. Vận đương xúi quẩy, ăn một bữa thịt chó vào, người ta rất có hy vọng giải đen. Đánh bạc thua liền ba đêm, này! Ăn một bữa thịt chó, có người gỡ lại hết cả tiền thua, mà lại còn được thêm là khác. Thử hỏi trong tất cả các món ăn trên thế giới có món ăn nào khả dĩ lại di chuyển được vận hạn của con người đến thế hay không? Nhưng dẫu sao, chuyện di chuyển vận hạn cũng là chuyện của tương lai huyền bí. Nói ngay đến chuyện thiết thực ở trước mắt mà chơi.

Một chiều mưa phiêu phiêu ở chốn đồng ruộng căm căm gió rét, không đi chơi đâu được, mà trải một cái chiếu lên thềm gạch ngô, đưa cay vài chén tửu, trước mặt có một mâm thịt chó làm đủ các món: chả, tái, cà ri, dựa mận, chạo, nem ... riêng cứ trông thôi, ta cũng đã thấy lòng phiêu phiêu như mở hội rồi. Thịt luộc đỏ tươi, bì vàng màu da đồng, đặt bên cạnh đĩa rau húng chó; vài dĩa riềng thái mỏng tanh; chả nướng béo ngậy, màu cánh gián; đĩa bún trắng bong nằm cạnh những bát hầm dựa mận màu hoa sim; những liễn xào nấu với chuối 'chưa ra buồng' thái con bài; những đĩa dồi tươi hơn hớn, miếng thì trắng, miếng thì hồng, miếng thì tím lợt, đôi chỗ lại điểm những nhát hành xanh màu ngọc thạch... tất cả tiết ra một mùi thơm làn lạt như mùi hoa đồng thảo lại ngồn ngộn như mùi thịt gái tơ ... xin hỏi có ai mà chịu được, không thưởng thức một hai miếng làm duyên? Người chưa ăn bao giờ ăn thử một miếng lại muốn ăn hai, còn người đã biết ăn rồi thì phải nói rằng trông thấy thịt chó mà không được ăn thì buồn bã ủ ê, nếu không muốn nói là bủn rủn chân tay, bắt chán đời muốn chết..."

Và rằng sống trên đời mà không thử đặc sản cầy tơ mềm mại là một thiếu sót lớn. Vả lại, thịt cầy theo niềm tin của giới ghiền đỏ đen có thể là vận may mắn như:

"Ta tự bảo: ờ mà, sống ở đời bất quá nhiều lắm cũng chỉ đến sáu, bảy chục năm là cùng. Mà trong sáu, bảy chục năm đó, ngày vui quá ít, lo âu, sầu não lại nhiều, thế thì tội gì lại chuốc phiền khổ vào người cho mệt! Ngả con cầy ra đánh chén!

"Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,
Chết xuống âm phủ biết có hay không?"

Thôi thì được ngày nào hãy cứ biết chiều ông thần khẩu ngày ấy đã, sau ra sao sẽ liệu, ấy thế mà chưa biết chừng ăn một bữa cầy vào, cái vận mình nó lại chuyển hung thành cát, chuyển đen thành đỏ thì lại càng hay, chớ có sao đâu ?..."

Tôi đọc bài của ngòi bút Tạ Xuân Thạc cho những ý tưởng về món ăn mộc tồn như lời văn nghe chợt xao xuyến dạ dày:

"Việt Nam ta thịt chó là nguồn thực phẩm khá phổ thông, mà ăn thịt chó thì phải có củ riềng mới là đúng cách. Thật đúng như vậy vì thịt chó mà không có riềng đi kèm thì còn gì là vị thịt chó nữa! Ta hãy coi trích đoạn lời kể của tác giả TXT trong bài “Xực Cẩu Điệu Nghệ” dưới đây:

"... Tôi đang tính gắp thì Lão cản lại bảo khoan hãy gắp thịt vào bát vội mà hãy lấy một lát riềng thái mỏng, vài lá mơ bỏ vào bát sau đó kẹp với miếng thịt và chấm nhẹ vào bát mắm tôm. Ăn theo từng động tác như thế mới ngon. Mà thật vậy, miếng thịt nướng thơm lừng có chút vị cay nồng nồng của riềng, vị hơi chát của lá mơ đệm thêm vị mằn mặn của mắm có pha chút chua của chanh và vị cay của ớt thấm dần trong miệng làm hơi đau hai bên mang tai vì sự kích thích khẩu vị..."

Đó là trích đoạn tác giả nói về củ riềng, phải ăn kèm với thịt chó thì mới ngon, mà cả ca dao Việt Nam cũng nhắc đến củ riềng:

"Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”
(Ca dao)

Tại Việt Nam, thịt chó hiện nay là một nguồn thịt chính yếu, nó không khác gì thịt heo, bò, gà cung cấp thịt cho thị trường hằng ngày. Các nhà hàng bán thịt chó quảng cáo rằng có đến những chín món, vậy mà xem ra vẫn còn thua nước Đại Hàn vì thịt chó ở nước này họ chế biến làm ra những hàng trăm món hay hơn nữa, như vậy chứng tỏ VN còn thua xa Đại Hàn về món “cẩu xực”.

Tại nước ta mặc dầu chưa có một cơ quan nào có con số thống kê chính xác về lượng thịt chó được tiêu thụ mỗi ngày, nhưng chỉ riêng ở Sài Gòn thì theo lời một chủ lò giết mổ chó ở khu Bùi Phát, quận 3, quả quyết con số đó phải trên 1,000 con một ngày, hay hơn con số đó nữa. Việc mua bán, kinh doanh thịt chó nghiễm nhiên trở thành một nghề như bao nghề khác, thế nhưng vấn đề quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thịt chó dường như không có ai làm. Vì thế mà chó già, chó bệnh, chó bị đánh bả chết (giết bằng thuốc độc), chó bị ghẻ lở, bị lác “khô”, lác “ướt”... đều được “phù phép” thành cầy tơ..."

Thật ra Việt Nam không phải là nơi duy nhất hạ mộc tồn, mà Đại Hàn và Trung Hoa là hai nơi bị các hội đoàn bảo vệ súc vật lên án từ lâu. Trong bài xã luận từ Viện Kỹ Thuật Illinois, bà Merry M. Merryfield cho biết hàng ngàn năm qua xã hội Đại Hàn là nơi mà dân chúng vẫn dùng thịt chó như một loại thịt phổ thông. Ngược dòng lịch sử tại vùng bắc Á châu, sách Samachon trong năm 145 trước Công Nguyên tại Trung Hoa thịt chó được xử dụng như nguồn thực phẩm, trong các triều của nhà Thanh và nhà Minh những người giàu có ăn thịt chó vì tin tưởng chó là vị thuốc tốt cho sức khỏe con người. Còn tại Nhật Bản thuở xưa người ta tìm loại chó có màu đỏ để giết lấy thịt vì loại chó này vốn chứa vị thuốc bổ dưỡng. Còn tại Đại Hàn trong triều đại mà vua Chosun trị vị thì người dân thuở dó rất tin tưởng thịt chó rất ngon và bổ dưỡng, điều này tạo thông lệ cho nhiều nơi mà ngày nay thiên hạ vẫn ăn thịt chó rất tự nhiên.

Trong bài viết "Món "Mộc tồn" trong văn hoá ẩm thực Hàn Quốc" trên net cho bài viết khá lý thú. Xin trích một phần của bài viết như sau:

"Mỗi năm người Hàn Quốc giết tới 1 triệu con chó để thoả mãn món khoái khẩu này. Thịt chó đã trở thành "mỹ vị" trên bàn ăn của tuyệt đại đa số dân chúng. 92% đàn ông và 68% phụ nữ Hàn Quốc ở tuổi trưởng thành khi được phỏng vấn đã cho rằng thịt chó là một trong những món ăn ngon nhất đối với họ. Thế nhưng vì món mộc tồn này mà giải World Cup tổ chức vào tháng 6/2002 ở Hàn Quốc/Nhật Bản phải gặp trắc trở. Một số tổ chức bảo vệ động vật quốc tế đã vận động và gây sức ép để buộc chính phủ Hàn Quốc ra lệnh cấm ăn thịt chó. Lý do họ đưa ra là: ăn thịt chó là hành vi ngược đãi chó - một loài vật nuôi, bạn của con người. Sự việc đã trở nên rắc rối khi FIFA cũng đứng về phía những người bảo vệ động vật để gây sức ép với chính phủ Hàn Quốc. Đòi hỏi này của FIFA và những người bảo vệ động vật đã bị dân chúng Hàn Quốc phản đối mạnh mẽ. Họ cho rằng: ăn thịt chó là nét văn hoá ẩm thực của Hàn Quốc cần phải được bảo vệ, không việc gì phải khuất phục trước áp lực của người ngoài."

Tại sao người Hàn Quốc thích thịt chó ?

"Theo các kết quả thống kê, thịt chó là thức ăn được sử dụng nhiều thứ tư ở Hàn Quốc, sau thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Người Hàn Quốc đã nuôi chó để giết thịt từ nhiều thập kỷ nay, cũng như nuôi ngựa và lợn. Thịt chó trở nên quen thuộc với người Hàn Quốc vì nó đem lại cho họ nguồn protein mà họ thiếu vì họ không thể giết ngựa một cách tràn lan do con vật này có tầm quan trọng đặc biệt đối với công việc đồng áng."

Thịt chó cản trở thể thao:

"Những người bảo vệ động vật cho rằng, ăn thịt chó là không thể chấp nhận được vì chó là một loại động vật gần gũi với con người. Nhưng lập luận này rất thiếu sức thuyết phục đối với đông đảo người dân Hàn Quốc bởi họ cho rằng như vậy cũng không nên ăn thịt gà hoặc lợn bởi những con vậy này cũng được nuôi như gia súc.

Ngay ở Hàn Quốc, thói quen ăn thịt chó không phải lúc nào cũng được ủng hộ tuyệt đối. Vào những thời điểm nhất định, khi cần phải nâng cao thể diện quốc gia vì một lý do quan trọng mang tầm quốc tế, thói quen ăn thịt chó của người Hàn Quốc cũng gặp phải những hạn chế nhất định. Trong thời gian diễn ra thế vận hội 1988 ở Seoul, chính phủ Hàn Quốc đã yêu cầu các chủ nhà hàng bán thịt chó tạm thời đóng cửa hoặc di chuyển sang các khu phố xa trung tâm. Với việc hàng trăn ngàn khách du lịch sẽ đến Hàn Quốc để dự World Cup 2002, một lần nữa những tranh cãi xung quanh món mộc tồn lại trở nên hết sức sôi nổi, thậm chí có phần căng thẳng..."

Thịt chó vốn bổ dương <?>:

"Tuy nhiên, nếu ghé vào bất cứ của hàng thịt chó nào ở Seoul và nói chuyện với ông chủ cửa hàng hoặc những thực khách đang say sưa thưởng thức một thực đơn toàn những món thịt chó, bạn sẽ nhận được những lời khẳng định như đinh đóng cột rằng thói quen ăn thịt chó bắt nguồn từ Trung Quốc và đã du nhập vào Hàn Quốc từ hàng trăm năm nay. Sự phổ biến của các món ăn chế biến từ thịt chó một phần còn do Hàn Quốc là một dân tộc đặc biệt quan tâm đến sức khoẻ mà thịt chó lại được coi là một món ăn bổ dưỡng. Niềm tin này cũng bắt nguồn từ Trung Quốc. Ý thức về vị trí độc tôn của người đàn ông trong xã hội Hàn Quốc cũng góp phần làm cho thịt chó trở thành món ăn đặc biệt trong ẩm thực của người Hàn. Phần lớn những người thưởng thức thịt chó là đàn ông và tương truyền, món ăn này có tác dụng đặc biệt đối với việc tăng cường sinh lực cho người đàn ông trong chuyện chăn gối. Theo một trong những cuốn sách mà Hải thượng Lãn Ông, ông tổ của y học phương Đông để lại, thịt chó được coi là một vị thuốc quý: có tác dụng tốt đổi với lục phủ ngũ tạng, thúc đẩy tuần hoàn máu, tăng cường khả năng sinh lý ở nam giới ... và nhìn chung là là bồi bổ rất tốt cho cơ thể. Theo quan niệm của người Hàn Quốc, thịt chó có tác dụng giải nhiệt mùa hè và giúp cơ thể tăng sức đề kháng với các loại bệnh dịch..."

Súp truyền thống Boshintang - Bổ Nội Tạng:

"Ở Hàn Quốc, thịt chó thường được chế biến thành một món xúp có tên gọi là boshintang mà người dân nơi đây cho rằng rất bổ dưỡng cho sức khỏe. Món súp này hội tụ gần như tất cả các vị của các món súp truyền thống của Hàn Quốc, như món doenjang hay súp kim chi. Khác biệt duy nhất là trong món súp này có thịt chó. Những người bảo vệ món này cho biết khi ăn, một số người cảm thấy như họ bị lừa bởi vị của món thịt này rất giống với thịt ngựa. Trong khi đó, tập tục ẩm thực của người Hàn Quốc là phải cho người ăn biết họ đang ăn thịt gì. Hơn nữa, thịt chó lại rất thơm ngon và bổ dưỡng, và giúp bổ sung năng lượng cho một người đang phải chịu cái nóng khủng khiếp của mùa hè. Thịt chó, theo một số người ủng hộ, bao gồm các enzyme mà trong cơ thể con người cũng có. Hơn nữa, thịt chó rất giống với thịt người, khiến cho nó trở nên khó tiêu hoá. Theo họ, đây chính là điều khiến thịt chó có khả năng phục hồi năng lượng cho người ăn. Dù nguồn gốc của việc ăn thịt chó như thế nào, phần lớn người Hàn Quốc hôm nay tin tưởng một cách nhiệt thành rằng đây là một món ăn bổ dưỡng vô cùng hiệu quả. Trong đơn thuốc điều trị, nhiều bác sĩ Hàn Quốc đã chỉ định việc sử dụng thịt chó cho bữa ăn hàng ngày để phục hồi sức khỏe cho các bệnh nhân sau phẫu thuật hoặc tăng cường sinh lực cho các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo."

Thịt chó là liều thuốc không cần toa bác sĩ:

"Tất cả những yếu tố trên khiến cho người Hàn Quốc ngày càng ưa chuộng thịt chó. Xét về mức độ tiêu thụ phổ biến, thịt chó từ vị trí thứ tư đã tiến lên vị trí thứ ba trong những năm gần đây trong xã hội Hàn Quốc và hiện nay người Hàn ăn nhiều thịt chó hơn là thịt bò. Người Hàn Quốc cũng hiểu rất rõ rằng, nhiều nước trên thế giới không chấp nhận thói quen ăn thịt chó của họ. Tuy nhiên, trên khắp đất nước nhỏ bé này vẫn có tới 6000 cửa hàng bán thịt chó và cùng với một số đông đàn ông thường xuyên đến thăm các cửa hàng này, còn rất nhiều người coi thịt chó như một thức thực phẩm bổ dưỡng hoặc thậm chí như một thức thuốc bổ và sử dụng chúng theo đơn thuốc của bác sĩ."
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #7591 · Replies: 9 · Views: 30,880

convoiyeuco
Posted on: Mar 16 2006, 06:20 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178



Ăn uống là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống, nhưng ngày nay ăn uống không chỉ đơn thuần để tồn tại, mà ăn uống đã và đang trở thành một nghệ thuật. Ở mỗi địa phương có mỗi phong cách, khẩu vị và những món đặc sản riêng của mình, thì tại TP. HCM, lại có rất nhiều món ăn cũng như nhiều địa chỉ cho bạn lựa chọn.



Đầu tiên không thể không nhắc đến món phở. Phở là món ăn điểm tâm không thể thiếu của người dân thành phố, từ 5000-6000đ/tô đến 15.000-16.000đ/tô. Có hai loại phở chính là phở bò và phở gà. Nhiều người thích ăn phở Bắc, mang đậm hương vị của Hà Nội, có người lại thích phở Sài Gòn vốn xuất xứ từ phở Bắc nhưng nay đã được biến tấu cho hợp khẩu vị Nam bộ.

Hủ tíu - mì là món điểm tâm của người Hoa, cũng phổ biến như phở của người Việt. Có nhiều loại mì: thập cẩm, cá, tôm, xá xíu, sườn heo… Ngoài món hủ tíu - mì nước, còn có món hủ tíu - mì xào, hoành thánh, cũng rất được ưa chuộng.

Hủ tíu Nam Vang, món ăn từ Campuchia, cũng đã được chế biến lại cho hợp khẩu vị người Việt. Nước lèo, thịt nạc băm nhuyễn, gan heo cắt lát, và tôm tươi đã tạo nên vị ngọt cho món ăn, hương vị này còn có mùi vị đặc trưng do ăn chung với tỏi ngâm giấm, ớt hiểm. Khác với phở ăn kèm rau thơm, hủ tíu Nam Vang ăn với rau tần ô và xà lách.

Bún bò Huế là một món ăn rất nổi tiếng. Bún dùng trong bún bò là loại bún cọng to, thịt bò gân và một thứ không thể thiếu đó là chả Huế. Bún ngon cũng phải kể đến rau và ớt, đặc biệt ớt xào với sả. Bạn cũng có thể đến với xứ Huế qua các món ăn dân dã nhưng rất ngon như bánh nậm, bánh khoái, bánh bột lọc…

Bún mắm: là món ăn khá độc đáo và hấp dẫn của đất Sài Gòn. Một tô bún bưng lên còn nghi ngút khói với hương vị thật là ấn tượng, ít loại bún nào có đó là… mùi mắm. Và đặc biệt là chỉ một tô bún thôi nhưng lại xuất hiện đủ thứ "linh kiện" hhoàn toàn khác nhau như tôm, thịt, heo quay… cho đến mực và một dĩa rau cũng thật la. Nhưng tất cả những thứ đó hòa quyện vào nhau lại khiến bạn không thể quên khi bạn đã ăn thử một lần.


Bún cá Sóc Trăng
cũng là món ăn khá hấp dẫn. Nước lèo được nấu từ cá đồng, kèm theo tôm băm nhuyễn, xào rồi chan vào tô bún. Cũng giống như mì Quảng, bún cá Sóc Trăng ăn kèm rau thơm, giá sống, kiệu chua. Đặc biệt nước lèo khi nấu phải thật trong và có vị ngọt thanh của cá.

Bánh canh Trảng Bàng và bánh tráng phơi sương là món ăn nổi tiếng của Tây Ninh. Điểm độc đáo của món bánh tráng phơi sương là bánh tráng nướng lên sau đó đem phơi sương, bánh sẽ mềm, dẻo, mà không cần phải nhúng nước. Bánh tráng được cuốn với thịt luộc ăn kèm với các loại rau sống đặc trưng cuœa món này.


Cháo cũng là món ăn không thể thiếu trong đời sống người Việt, từ cháo thập cẩm của người Hoa, cháo hến của Nam bộ, cháo mực của Trung bộ, cháo lòng, cháo vịt, gà… Ngoài ra, ngon và lạ miệng còn có cháo trắng ăn với hột vịt muối.



Món ăn chính của người dân thành phố nói chung vẫn là cơm cùng với thức ăn thường nhật được chế biến từ thịt, cá, tôm… và rau củ các loại. Tuy nhiên có rất nhiều cách nấu cơm như: cơm gà nấu từ nước luộc gà, cơm hến, cơm nấu bằng nước dừa, cơm ống tre, cơm niêu, cơm đập… hoặc nấu rồi chiên như cơm chiên Dương Châu. Bên cạnh đó các món chay cũng rất được ưa chuộng. Vào những ngày rằm, mùng một, các quán chay ở Sài Gòn đông khách gấp nhiều lần ngày thường. Thức ăn chay cũng rất đa dạng, phong phú.

Ngoài ra, Sài Gòn còn có những món ăn mang vẻ bình dân, giản dị của đất Quảng miền Trung như mì Quảng, cao lầu, cơm gà, bánh bèo chén, bánh xèo, bánh đập, bánh tráng, bánh đa xúc hến… Mì Quảng ngon là nhờ vào nước lèo có thêm chút gạch cua hay tôm, sợi mì to, ngắn làm bằng bột gạo, dẻo, mềm, có màu vàng của nghệ. Một tô mì Quảng đúng điệu thì không thể thiếu bánh đa nướng, rau thơm và đậu phộng.

Hiện nay, xu hướng ẩm thực của người dân thành phố đang có ít nhiều thay đổi, một trong những cách ăn đang được chú ý tới là bạn có thể tự trổ tài nấu nướng, hoặc ăn theo dạng tự chọn. Bạn tự chọn thực phẩm và gia vị, sau đó nhà bếp sẽ thực hiện khâu cuối cùng là làm chín món ăn. Ăn buffet, và đặc biệt là buffet hải sản đang thu hút rất nhiều người vì hải sản tươi sống đang là món khoái khẩu của người dân thành phố. Có nhiều cách chế biến nhưng ngon nhất vẫn là hải sản hấp hoặc nướng vì còn nguyên vẹn chất tươi, hương biển.

Ngoài ra, các món nướng cũng rất được ưa chuộng với rất nhiều loại như: cá, thịt, tôm, cua, ếch, bò, gà, dê… Có 2 cách nướng: nướng trực tiếp trên bếp than và nướng bằng ống tre.

Về sự phong phú của ẩm thực Sài Gòn còn phải kể đến họ hàng nhà lẩu - một trong những món ăn rất được ưa chuộng. Có nhiều loại như lẩu dê, lẩu đuôi bò, lẩu mắm, lẩu cá, lẩu hải sản, lẩu Thái Lan… Nét đặc biệt của lẩu Việt Nam là ở đĩa rau đi kèm, có chừng hơn chục loại rau như rau đắng, rau nhút, bông súng, rau dừa, rau chóc, đậu rồng…
Dùng lẩu phải nóng và nhiều rau xanh, do đó nước lẩu phải sôi, lửa phải đỏ rực.

Bạn còn có thể dùng những món khác như bê thui, cu đất nướng, ba ba…và hàng loạt các món ăn được chế biến từ các loại thịt… ở rất nhiều nhà hàng, quán ăn trong thành phố.




Ngoài ra, còn có nhiều món ăn của nước ngoài trong một số nhà hàng, khách sạn trong thành phố này như:
Món ăn Pháp: được tẩm gia vị kỹ lưỡng, nhất là những loại rượu vang trắng hoặc đỏ. Các món ăn thường ăn kèm xà lách trộn và bánh mì, khi ăn thì không thể thiếu được rượu vang.


Món ăn Đức: khi chế biến hơi ít tẩm gia vị hơn những món ăn của các nước khác, khẩu vị hơi đậm và không sử dụng đường. Thịt nguội, jambon, xúc xích thật vô cùng phong phú và đa dạng. Bánh mì Đức cũng ngon không kém, nhưng đặc biệt nhất là bia Đức, đây là loại bia làm bằng lúa mạch và men tươi.

Món ăn Ý: nói đến nước Ý là nghĩ ngay đến mì, gần như đây là biểu tượng của đất nước này. Có rất nhiều kiểu mì, đa số là mì tươi, khi bắt đầu ăn mới chế biến. Thường thì mì được hấp chín bày ra đĩa rưới nước xốt lên. Có rất nhiều loại nước xốt khác nhau: xốt cà chua, xốt tôm mực, xốt sữa… Ý còn được biết đến qua món ăn nhanh Pizza.


Món ăn Nga: nói đến món ăn Nga là phải nghĩ ngay đến bánh mì đen và rượu vodka. Các món ăn Nga phần lớn được nấu theo dạng xúp, các món khác thường có nhiều bơ. Nga còn nổi tiếng với các món ăn khác như thịt hun khói, cá hồi…

Món ăn Trung Quốc: Trung Quốc là một nước nổi tiếng về ẩm thực của Châu Á. Các món ăn Trung Quốc thường nhiều rau, ít thịt, và mỗi món ăn là một vị thuốc. Một đặc điểm khác nữa là món ăn của Trung Quốc rất nhiều dầu mỡ. Trung Quốc có món vịt quay Bắc Kinh cũng rất nổi tiếng.

Món ăn Thái: rất phong phú, đơn giản khi chuẩn bị, chế biến, nhưng lại có những hương vị đặc biệt và khó quên từ gia vị tự nhiên nhất là ớt, riềng, sả . Lẩu Thái Lan được du nhập và cải biến lại cho hợp khẩu vị của người Việt. Hiện nay, lẩu Thái là một trong những món ăn rất được ưa thích trong các đám tiệc, nhất là tiệc cưới.

Món ăn Nhật: thường là các món ăn tái sống, đặc biệt là hải sản tái được vắt chanh vào chấm với mù tạt xanh, dùng với rượu Saké. Khẩu vị của món ăn Nhật chua, thức ăn được bày dọn cầu kỳ, đẹp mắt. Thực phẩm chính như gạo và đậu hũ là món không thể thiếu trong các buổi ăn truyền thống Nhật Bản.

............( nếu được hưởng ứng sẽ đăng tiếp ) tongue.gif
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #7566 · Replies: 9 · Views: 30,880

convoiyeuco
Posted on: Jan 2 2006, 01:34 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


o SAIGON ne``````` hihì
  Forum: Diễn Đàn Việt Nam · Post Preview: #7159 · Replies: 10 · Views: 21,924

convoiyeuco
Posted on: Oct 29 2005, 05:06 PM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178



user posted image

Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh




Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong thời gian quen biết nhau.

Chúng ta hãy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đã đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một gia đình khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.

Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của chính bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy thì đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn không".

Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết rằng...".

Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh "họa" lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu?

Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy. Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết: "Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu". Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đã xác nhận.

Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đình phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của chế độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương tự như tình cảnh của Dũng và Loan.

Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê đã rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì "em không phải là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng", vì "em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em". Những chi tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại mãi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những "cánh hoa tim vỡ" là của Thanh Châu.

Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này, một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày tâm sự của mình.

Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút. Mà tùy bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã vò nát những cánh hoa ti gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là "chứng nhân" một thời của tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: "Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu".

Trong những phần trước, chúng ta đã nhắc đến chuyện những cánh hoa ti gôn. Giờ đây ta lại thấy rõ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm phai" này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về mối tình xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi lòng mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi về "vườn Thanh" cho người xưa.

Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau lòng không kém. Trong tình cảnh như thế, thì một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?

Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số "ứng viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh thì dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo...
Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:
Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
(Bài thơ cuối thu, 1960)
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao
(Vào thu - 1993)

Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút gì là của T.T.Kh không?
Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài thơ thì có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T.T.Kh.

Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.

Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. Còn như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh người chồng giàu sang của mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện bình thường và hợp lý.

Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu cùng quý bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định. Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong lòng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể không viết lại câu chuyện này. Vì nó là khát khao của người yêu thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến cõi lòng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: "Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?". Cho đến nay, đã qua bảy mươi năm, có lẽ người đã quyết định "ôm nỗi buồn riêng về nơi chín suối" rồi. Vì thế giả định này nếu đúng chắc người cũng không lên tiếng tự nhận mình là T.T.Kh. Vậy xin hãy xem đây như là một việc làm vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ say đắm ấy để có câu chuyện này.


THE END
  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6667 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Oct 28 2005, 09:59 PM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178



user posted image


Ai có thể là T.T.Kh?


Bà Trần Thị Vân Chung
Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị Khánh...


Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994.

Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.

Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.

Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.

Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì không thể không công bố". Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".

Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.

Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).

Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.

Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.

Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".

Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".

Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.

Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.

Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối chiếu.





  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6658 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Oct 28 2005, 07:21 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178



user posted image





Ai là người yêu của T.T.Kh ?




Thưa bạn đọc, chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông việc T.T.Kh đã trách ông. Nhà văn cũng đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ý như thế.


Đến đây, chúng tôi muốn tạm gác câu chuyện hoa ti gôn lại trong chốc lát để chuyển qua chuyện Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu thừa nhận là của T.T.Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối bất thường. Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại đăng ở báo khác. Thứ hai là về hình thức, nó cũng khác ba bài thơ kia. So sánh với ba bài kia, Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc biệt trong khi ba bài thơ của T.T.Kh đều là thơ bảy chữ thì Bài thơ đan áo lại theo thể thơ lục bát. Thật là vô lý khi T.T.Kh đang rất điêu luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua thơ lục bát để rồi lúng túng trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được nhuyễn. Chính những vướng mắc trên đã khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của người khác giả mạo T.T.Kh.

Thế nhưng T.T.Kh lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài thơ cuối cùng nàng lại nhắc đến nó: "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem". Hiểu thế nào cho đúng về vấn đề này? Ai là người đã viết Bài thơ đan áo? Chúng ta nhớ một điều, Bài thơ đan áo ngoài những bất thường như nói trên còn có điểm khác biệt rất lớn với ba bài thơ kia. Đó là tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một người chị nào đó: "Chị ơi, nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương".

Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng. Trong bài thơ đó, T.T.Kh đã nhắc đến một người nào đó ngoài người ấy: "Chỉ có ba người đã đọc riêng/Bài thơ đan áo của chồng em". Ba người ấy là ai? Phải chăng là có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?

Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ. Qua phân tích cuộc "đối thoại", chúng ta đã thấy được phần nào mối quan hệ "không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách "Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì". Chúng ta tiếp tục phân tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra còn có thêm nhân vật anh: "Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng". Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?

Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau thì Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.

Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực tiếp với người yêu mình: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?". Tại sao như vậy? Là vì lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói chuyện "đâu ra đấy" với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ thơ thứ năm: "Từ đây anh hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình". Ta thấy lúc này nàng cự cãi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ chàng vừa gây ra một lỗi lầm gì đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem" thì ta sẽ hiểu ngay chuyện gì. Đó là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đã lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức. "Rao bán" là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".

Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét/Thì đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước thì nàng cố giấu nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn.

Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một.

Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh. Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn tôi phơi phới quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương".

Thật sự ta đã giải mã được vấn đề quan trọng là tìm ra người ấy của T.T.Kh. Đến đây, chúng tôi muốn trở lại vấn đề ai đã viết Bài thơ đan áo. Như trên đã phân tích, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với ba bài thơ kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc điểm quan trọng nhất thì nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác. Bài thơ đan áo cũng được viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh": "Chị ơi nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Chúng tôi cho rằng, bài thơ này cũng là của T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài thơ kia rất lâu. Bạn đọc có thể thắc mắc: vì sao Bài thơ đan áo không hay như mấy bài thơ kia. Đó là do hoàn cảnh sáng tác. Trước đây, T.T.Kh chỉ sáng tác để gửi cho người chị nào đó của mình đọc nên có thể cảm xúc không trào dâng bằng viết cho người mình yêu.




  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6648 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Oct 28 2005, 07:19 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178



user posted image

Mối quan hệ giữa T.T.Kh và tác giả truyện ngắn


T.T.Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái tình duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu hỏi này là ta có trong tay chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.




Hãy đọc lại bài thơ đầu tiên của T.T.Kh. Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả viết ngay sau khi đọc được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như "họa" lại truyện ngắn, từ hình thức cho đến nội dung. Khởi đầu là cái tựa: Hoa ti gôn - Hai sắc hoa ti gôn. Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những cánh hoa: "Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn". Chuyện tình thơ cũng bắt đầu từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên Tây ấy: "Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn/Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn/Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc/Tôi chờ người đến với yêu đương".



T.T.Kh và Thanh Châu đã lấy cùng một loài hoa để khơi dòng tâm sự. Thứ hoa dây leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh chụm lại thành "hình quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là "quả tim vỡ". "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".



Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài hoa này đã quá nổi tiếng thì nhìn nó, người ta có thể nghĩ đến hình dáng quả tim vỡ làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa xảy ra, khó có ai nghĩ đến điều này. Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy rằng, thật khéo tưởng tượng thì mới nghĩ ra được như thế. Thế mà câu chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T.T.Kh đều xoay quanh cái chi tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu vì sao những nhân vật trong thơ và trong truyện có cách nhìn giống nhau đến vậy? T.T.Kh nói rằng đó chẳng qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".



Như vậy là ta đoán nhầm? Vì T.T.Kh đã nói rõ rằng hai người không quen biết gì nhau. Chẳng qua chỉ là sự tình cờ. Nhưng ta vẫn thấy có quá nhiều băn khoăn. Vì lẽ gì cánh hoa ti gôn ấy lại ám ảnh cả hai người như vậy?



Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của chàng họa sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi kịch khi chàng nhận phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn nhỏ rơi ra. Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến chỗ kết thúc một mối tình: “Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”.



Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".



Bạn đọc hãy lưu ý đến những cánh hoa ti gôn. Không chỉ trong bài thơ trước mới có mặt chúng, loài hoa này hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này. Lẽ ra ta nên gọi nghi án văn học này là nghi án văn học hoa ti gôn. Hoa ti gôn - chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong tiểu thuyết Gánh hàng hoa của nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện. Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ có những bài thơ tuyệt tác của T.T.Kh, không bao giờ có được câu chuyện tình văn chương kỳ lạ này.



Nhưng ta hãy chú ý điều này: trong bài thơ thứ hai, T.T.Kh không còn nhìn những cánh hoa ti gôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ như giận người nhắc đến cánh hoa ti gôn: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".



Chúng ta thấy hé lộ ra một điều không bình thường. Lúc trước nàng bảo, ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn Hoa ti gôn, thấy ai cũng có tâm trạng giống mình nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi đăng báo cho vơi bớt nỗi lòng, thế mà bây giờ lại có ý trách người viết truyện.



Bạn đọc hỏi, có thấy nàng giận hờn trách móc chỗ nào đâu? Có đấy! Nàng trách nhưng mà trách khéo lắm. Trách mà không có lời trách. Ta hãy đọc tiếp: "Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ/Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ". Ý nàng muốn nói rằng, còn gì đâu nữa, giờ mọi chuyện đã lỡ làng hết cả rồi, tình tan nát như loài hoa tim vỡ rồi, người nhắc đến chuyện xưa làm gì nữa.



Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng nàng đối thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều gì. Nhờ tài hoa, nàng đã làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế kỷ qua. Đây là lời dặn của nàng: "Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá/Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:/“Cố quên đi nhé câm mà nín/Đừng thở than bằng những giọng thơ".



Nhưng thật không may. Bài thơ cuối cùng đã làm nàng lộ tẩy. Nàng không thể giữ kín cuộc đối thoại: "Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly/Càng khơi càng thấy lụy từng khi/Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì?"



Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Bạn đọc đã thấy chưa! Thật là giấu đầu hở đuôi. Nàng đã quên cả giữ ý tứ, đi trách một người mà nàng bảo là không quen biết. Cái bọc đã không giấu nổi cây kim. Ấy là vì chuyện Bài thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến đây, chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ gì thì mới đi trách người chứ!...

  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6647 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Oct 28 2005, 07:12 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


[quote=convoiyeuco,Oct 28 2005, 07:05 AM]
user posted image

T.T.Kh là “nàng” hay “chàng”?


T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ. Ảnh: Viettouch
Ta đã tìm hiểu qua về thơ T.T.Kh trong kỳ trước. Thật ra, ta thấy thơ T.T.Kh nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đã khơi nguồn và Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn: "Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh/Những luồng run rẩy rung rinh lá.../Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu); "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T.T.Kh).

Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt bên cạnh thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính: "Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi/Hôm qua đã rụng một rồi/Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính), "Bừng sáng, xuân bay tang tảng sương/Canh gà heo hút nẻo giang thôn/Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc/Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).

Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh. Nhà văn Thanh Châu đã bỏ công tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi đến nhận xét: thơ T.T.Kh không có những chữ như ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường như Thâm Tâm, không có những chữ như vương tơ, lão bộc, vật đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the như Nguyễn Bính. Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Chúng ta thấy thêm, ở Nguyễn Bính thường có xu hướng sử dụng từ ngữ địa phương mỗi khi có điều kiện, chẳng hạn "giời" thay cho "trời", "giầu" thay cho "trầu"... Như trong bài Cô gái vườn Thanh, Nguyễn Bính viết: "Vườn Thanh qua đấy năm xưa/Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời". Đây là một thói quen mà T.T.Kh không hề có.

Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm cho thấy tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ yếu được đào tạo theo quốc học. Về mặt sử dụng hình ảnh, cũng có những điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ đơn giản: hình ảnh bông hoa ti gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập vào Việt Nam trước đó không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đình trưởng giả. Nó có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà thơ áo bào gốc liễu như Thâm Tâm. Nếu cần dùng hình ảnh một loài hoa nào đó để làm thơ thay cho người khác thì với Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng hoa gạo, hoa lý, hoa xoan... còn với Nguyễn Bính thì ông sẽ dùng hoa cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp... để gợi cảm hứng. Thâm Tâm và Nguyễn Bính quyết không bao giờ dùng thứ hoa ti gôn xa lạ ấy: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u mình với chúng mình chân quê" (Thơ Nguyễn Bính), "Trăm giàn lý đỏ đã lên hoa/Tâm sự in như cảnh ác tà" (Thơ Thâm Tâm).

Thế nhưng hình ảnh trong thơ T.T.Kh thì lại khác. Nhiều hình ảnh trong thơ T.T.Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính: nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô... Những hình ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống" chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.

Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lõi hơn nữa. Một điều rất rõ là khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ. Thế nhưng như đã thấy, nhiều người vẫn cho rằng T.T.Kh là đàn ông. Bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu xem liệu có thể xảy ra điều giả định ấy được không? Điều này cũng góp phần loại bỏ bớt những "ứng viên" là nam giới.

Thật ra, nhiều câu thơ của T.T.Kh thể hiện rất rõ tính nữ trong đó. Đọc kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ thì mới viết như thế: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi người ấy có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ thì T.T.Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy có buồn không". Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và nói: "Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Lòng tôi còn giá đến bao giờ?/Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ.../Người ấy cho nên vẫn hững hờ". Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.

Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư tình cảm của con người. Nếu là một người hóa thân thành người khác để làm thơ thì rất khó, ngoại trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận: "Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi rồi đây/Nếu không yên được thì tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này" (Bài thơ cuối cùng), "Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung/Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng" (Bài thơ cuối cùng), "Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)...

Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái "đóng vai" để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện tình phụ tầm thường nhạt nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những bài thơ mang tên T.T.Kh. T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.


  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6646 · Replies: 16 · Views: 109,582

convoiyeuco
Posted on: Oct 28 2005, 07:10 AM


Advanced Member
***

Group: Members
Posts: 179
Joined: 19-December 04
Member No.: 178


[quote=convoiyeuco,Oct 28 2005, 07:05 AM]
user posted image





T.T.Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính ?



Thiếu nữ bên hoa huệ - Sơn dầu trên vải của Tô Ngọc Vân
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu xem liệu có thể tin rằng T.T.Kh là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính như một số tác giả đã khẳng định hay không.


Tác giả Hoài Việt, một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với hai thi sĩ này cho biết: Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu. Ba người tuổi tác xấp xỉ nhau, đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành nhiều ở các trường lớp chính quy, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có gì. Ngược lại họ là những người được học nhiều chữ Hán, chữ Nôm. Cả ba người có lúc cùng ở trọ một nhà với nhau để viết văn, làm báo. Những hoàn cảnh như trên đã ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của nhau, hình thành nên một nhóm thơ có tên gọi như trên.



Ngoài những nét riêng biệt trong các tác phẩm của từng người thì nhóm thơ này có một đặc điểm chung. Đó là các thành viên rất thích cái giọng văn chương hiệp sĩ, ưa dùng hình ảnh những tráng sĩ lên đường thời Xuân Thu Chiến Quốc. Những tráng sĩ mặc áo bào từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất, buộc ngựa vào gốc liễu, nghênh ngang bước vào tửu quán. Vì thế mà thơ của họ chứa đựng cái chất tráng ca, cái khí phách ngang tàng của những trang hảo hớn: "Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong" (thơ Thâm Tâm), "Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ gì áp Tiết thiên văn tự/Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây" (thơ Nguyễn Bính).



Nhận định của Hoài Việt như thế rất đúng với trường hợp của Thâm Tâm. Chất giọng văn chương hiệp sĩ của ông tạo nên nét riêng biệt không ai có được. Thơ ông là thứ thơ hùng tráng. Nếu có bi thì cũng là hùng bi: "Ngươi chẳng thấy/Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/Nước mạnh như thác, một con thuyền/Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!" (Can trường hành), "Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề"" (Vọng nhân hành). Chất rắn rỏi này không chỉ thể hiện trong những bài thơ thuộc thể hành mà cả khi Thâm Tâm làm những loại thơ khác.



Với Nguyễn Bính, ngoài cái phần chung với nhóm thơ trên mà ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của bạn bè, thể hiện trong vài trường hợp (chẳng hạn bài Hành phương Nam) thì thơ Nguyễn Bính được bao trùm bởi cái chất quê, như Hoài Thanh nhận định trong Thi nhân Việt Nam: "Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm". Thơ Nguyễn Bính phần lớn gần gũi với đời sống lam lũ quê mùa dù ông đang ở thành thị hay thôn quê. Từ ngữ nhiều khi quá dân dã đến nỗi một số nhà thơ thời ấy chê là ông làm hò vè: "Nuôi hai con lợn từ ngày xưa/Mẹ tôi đã tính "Tết thì vừa"/Trữ gạo nếp thơm mo gói bó/Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ" (Tết của mẹ tôi). Ngay cả khi làm thơ tình thì Nguyễn Bính cũng quê mùa chất phác như thế: "Lòng em như quán bán hàng/Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi/Lòng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều" (Em với anh). Cái chất dân dã quê mùa, pha lẫn với một ít chất tráng ca, có lẽ ảnh hưởng từ Thâm Tâm, đã tạo nên một Nguyễn Bính khó có thể lẫn vào ai.



Đó là những nét đặc thù trong thơ Thâm Tâm và Nguyễn Bính, hai tác giả được nhiều người coi là T.T.Kh. Vậy còn thơ T.T.Kh thì sao? Ta hãy đọc lại vài khổ thơ của tác giả này: "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi" (Hai sắc hoa ti gôn), "Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ/Một mùa thu cũ một lòng đau/Ba năm ví biết anh còn nhớ/Em đã câm lời có nói đâu" (Bài thơ cuối cùng).



Bạn đọc thấy gì trong những câu thơ này? Rõ ràng đây là những câu thơ nỗi lòng của một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn có lẽ quen sống trong cảnh mơ màng, không vướng bận chuyện đời thường. Nàng thích nhìn gió ngắm trăng mỗi khi cô đơn trong lòng. Nàng lại đọc tiểu thuyết mỗi khi buồn: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa". Gia cảnh của nàng rõ ràng là khá giả. Không phải thuộc loại "Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều/Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều" như Nguyễn Bính hay "Sinh ta, cha ném bút rồi/Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân" như Thâm Tâm.



Ta lướt qua những bài thơ của T.T.Kh và thấy, tác giả là người có thói quen sử dụng từ ngữ hiện đại. Có lẽ tác giả được đi học trường Tây chứ không phải đi học trường làng. Ta không tìm thấy những từ ngữ làng quê hay từ ngữ có nguồn gốc Hán-Việt nhiều ở đây. Vả lại những câu thơ như câu "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui" quá là hiện đại. Tình yêu trong thơ Thâm Tâm hoặc thơ Nguyễn Bính đâu có như thế.



Ta cần nhớ rằng vào khoảng thời kỳ 1932-1938, văn xuôi cũng như thơ Việt Nam còn đang cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản. Về thơ, đó là sự thay thế thể thơ Đường luật gò bó bằng thể thơ tự do, tức thơ mới. Đến năm 1936, cuộc cách mạng này coi như thành công mỹ mãn. Tuy nhiên có sự phân hóa. Một số tác giả muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức trong khi số khác lại không muốn bị "Tây hóa" quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới chỉ hình thức thôi. Xuất hiện một lớp nhà thơ "tân" bên cạnh những nhà thơ "cựu" vốn ít học chữ Tây. Văn chương của hai tầng lớp này có một sự khác biệt rất dễ nhận ra. Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của sự ảnh hưởng thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt.



Còn thơ T.T.Kh? Ngay cả Hoài Thanh vào năm 1942 cũng đã rất ngập ngừng không dám xếp hẳn thơ T.T.Kh vào dòng thơ Việt. Cho nên, giữa thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và T.T.Kh không thể nào chung trong một dòng thơ được. Thâm Tâm và Nguyễn Bính "cựu" quá trong khi T.T.Kh thì lại rất "tân".

  Forum: Romantic Corner · Post Preview: #6645 · Replies: 16 · Views: 109,582

7 Pages V   1 2 3 > » 

New Posts  New Replies
No New Posts  No New Replies
Hot topic  Hot Topic (New)
No new  Hot Topic (No New)
Poll  Poll (New)
No new votes  Poll (No New)
Closed  Locked Topic
Moved  Moved Topic
 

- Lo-Fi Version Time is now: 28th March 2024 - 10:51 AM